QNB lược dịch cuốn TVĐSTT (La Hồng Tiên biên soạn), sẽ đi thẳng vào dịch phần nội dung cuốn sách (bắt đầu từ phần 1 – Thái Vi Phú) mà bỏ qua lời giới thiệu của La Hồng Tiên.
Trong cuốn này, có nhiều cách cục và các câu phú đã được bàn luận và chú giải nhiều rồi (đặc biệt phần Thái Vi Phú và Cốt Tủy Phú) nên QNB không dịch và chú giải chi tiết chúng, chỉ những câu có từ ngữ khó hiểu, đa nghĩa thì mới được chú rõ theo cách hiểu của bản thân, độc giả tham khảo và bình luận thêm sau vậy.
Bạn đang xem: Tử vi đẩu số toàn thư
————
1. Thái Vi Phú
Đẩu số vô cùng huyền ảo thâm thúy, lý lẽ và ý nghĩa khó mà lường hết được. Tuy rằng có đặt ra các vấn đáp trong mỗi chương, nhưng do ngôn ngữ có giới hạn nên không thể nói hết thành lời được. Ngay như phân dã (địa phận) của các sao, tính chất sở thuộc của chúng, thọ yểu hiền ngu, phú quý bần tiện, đều không thể luận cứng nhắc theo 1 kiểu được đâu.
Sao phân bố trên 12 cung của nó, số định ba mươi sáu vị, nhập miếu là hay mà thất độ (lạc hãm) thì hỏng. Đại để lấy Phúc đức làm gốc của Thân Mệnh, thêm căn nguyên là sự biến đổi cùng-thông của sự thiên bẩm.
Sao có thể cùng chỗ, nhưng số có sự phân định (khác biệt), nên hiểu sinh khắc của chúng là trọng yếu, tất sẽ tỏ tường sự phân biệt miếu đắc hay thất hãm ở cung viên.
Xem triền xá (nơi cư ngụ của sao trên vòng xoay) của Tử Vi, tượng chủ mỗi một ngày, thống suất chư tinh liệt tú mà tạo thành tinh viên, thổ tinh tạo ra thành quách cung viên có thể di động, kim tinh chuyên ti tài khó rất sợ không vong.
Đế tinh động thì liệt tú ắt sẽ xáo động gấp rút, Tham thủ Không thì tài nguyên chẳng thể tụ được.
Chức vụ của các ti (có sự phân biệt), không thể can dự (chồng chéo) vào được.
Tự răn mình (tạm) ko xét xét đến Cơ, (tạm) quên đi Biến, để biết số của tạo hóa vậy.
Quy ước rằng:
Lộc phùng xung phá, cát xứ tàng hung.
(Lộc gặp Sát Phá xung chiếu thì như ở chỗ cát mà có tàng ẩn cái hung).
Mã ngộ Không Vong, chung thân bôn tẩu.
(Mã gặp Không Vong thì suốt đời bôn ba vất vả).
Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa.
(Mệnh cư chỗ bại địa là như hoa sớm nở chiều tàn).
Tuyệt xứ phùng sinh, sinh hoa bất bại.
(Mệnh ở chỗ tuyệt địa nhưng được tương sinh thì không thể suy tàn sớm được).
Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.
(Sao đã lâm vào nơi miếu vượng, lại xét xem then chốt của sinh khắc)
Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.
(Mệnh đóng vào cường cung, cần quan sát kỹ cái lý chế hóa)
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối, Lộc Mã tối hỉ giao trì.
(Nhật Nguyệt rất ghét lạc hãm, Lộc Mã rất mừng giao kết với nhau)
Thảng cư Không Vong, đắc thất tối vi yếu khẩn.
(Giả sử cư Không Vong thì đắc hãm lại rất quan trọng).
Nhược phùng bại địa, phù trì đại hữu kì công.
(nếu gặp bại địa thì các yếu tố trợ giúp sẽ có vai trò vô cùng quan trọng).
Tử Vi Thiên Phủ toàn ỷ Phụ Bật chi công,
(Tử Phủ muốn thành công phải hoàn toàn nhờ vào trợ giúp của phù tá tinh Tả Phụ, Hữu Bật)
Thất Sát Phá Quân chuyên ỷ Dương Linh chi ngược.
(Sát Phá thường nương theo Kình (đà) Linh (hỏa) mà làm điều mãnh liệt, hung tàn).
Chư tinh cát, phùng hung dã cát.
(Các sao tốt lành mà gặp hung thì mất tốt lành)
Chư tinh hung, phùng hung dã hung.
(Các sao hung mà gặp Hung thì mất tính hung??? QNB chú: dịch nguyên văn, chứ theo tôi thì câu này có sự thất bản, viết nhầm chữ Cát với Hung, vì lý vài sao Hung mà gặp nhiều Cát tinh hóa giải thì mới mất đi tính hung của chúng được).
Phụ Bật giáp Đế vi thượng phẩm,
Đào Hoa phạm chủ vi chí dâm.
Quân thần khánh hội, tài thiện kinh bang (= tài giỏi kinh bang tế thế).
Khôi Việt đồng hành, vị cư thai phụ (= vị trí quan tước cỡ Tam Công).
Lộc Văn củng mệnh, quý nhi thả hiền (= vừa sang quý vừa hiền đức).
Nhật Nguyệt giáp tài, bất quyền tắc phú (= chẳng quyền cao thì cũng giàu to).
Mã đầu đới kiếm, trấn vệ biên cương (= trấn giữ, bản vệ biên cương).
Hình Tù giáp Ấn, hình trượng duy ti (= chủ quản ti hành pháp, xử phạt đòn roi).
Thiện Ấm triều cương, nhân từ chi trường (=người nhân từ).
Quý nhập quý hương, phùng chi phú quý (= được hưởng phú quý).
Tài cư tài vị, ngộ giả phú xa (= giàu có xa hoa).
Thái Dương cư Ngọ, vị chi Nhật lệ trung thiên, hữu chuyên quyền chi quý, địch quốc chi phú.
(= Mặt trời sáng giữa bầu trời, người quyền quý cực cao, giàu có nhất nhì trong 1 nước).
Thái Âm cư Tý, hào viết Thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài.
(= Nước trong soi bóng cành quế, giữ chức vụ quan trọng, có tài can gián vua).
Tử Vi Phụ Bật đồng cung, nhất hô bách nặc, cư thượng phẩm.
(= hô 1 tiếng có trăm người dạ ran, cư quan cao thượng phẩm).
Văn Hao cư Dần Mão, vị chi chúng thủy triều đông.
(= Khúc Xương + Phá ở Dần Mão được coi là nước đổ ra bể đông, nghèo).
Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu hợp,
(đối với cả 2 sao Nhật Nguyệt thì chiếu hợp giáp đẹp hơn khi chúng đồng cung tọa thủ).
Ấm Phúc tụ bất phạ hung nguy.
(Lương Đồng gặp thêm các cát tinh thì không sợ hung nguy).
Tham cư Hợi Tý, danh vi “phiếm thủy đào hoa”.
(Tham Lang – tức chánh Đào Hoa tinh – hãm ở các cung hành thủy gọi là “Đào hoa lênh đênh trên sóng nước”).
Hình ngộ Tham Lang, hiệu viết “phong lưu thái trượng”.
(Hình gặp Tham thì gọi theo biệt hiệu là “khoe mẽ phong lưu” – cách này dễ ăn đòn)
Thất Sát Liêm trinh đồng vị, lộ thượng mai thi (= dễ chôn thây ở trên đường).
Phá Quân ám diệu đồng hương, thủy trung tác trủng.
(Phá Kị đồng cung – có thêm Xương Khúc – thì dễ chết chìm, táng mạng dưới nước)
Lộc cư Nô Bộc túng hữu quan dã bôn trì,
(Tuy làm quan nhưng vẫn vất vả hoặc làm công việc có tính chất chạy đôn đáo ngược xuôi),
Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô đạo.
(Tử Vi gặp Kiếp Không, sát tinh, thì tuy vẫn có phần thành công nhưng là kẻ vô đạo)
Đế tọa kim xa, tắc viết kim dư phù giá,
(Tử Vi cư Ngọ có Tả Hữu chầu + cát tinh là cách vua ngồi xe vàng, thần phù tá xa giá)
Phúc an văn diệu, vị chi ngọc tụ thiên hương.
(Phúc cung an Khôi Việt Xương Khúc là coi như ngọc sáng, truyền đời nắm quyền cao).
Thái Dương hội Văn Xương vu Quan Lộc, hoàng điện triều ban, phú quý toàn mỹ.
(Nhật + Văn Xương ở Quan Lộc cung thì làm quan to trong triều, vừa phú vừa quý).
Thái Âm hội Văn Khúc vu Thê cung, thiềm cung chiết quế, văn chương toàn thịnh.
(Thái Âm + Văn Khúc ở cung Thê thì lấy con gái nhà danh gia, có tài văn chương, thi cử đỗ đạt).
Lộc Tồn thủ vu Điền Tài, đôi kim tích ngọc (= giàu có vô cùng).
Tài Ấm tạo vu Thiên Di, cự thương cao cổ (= đi buôn phát tài lớn).
Hao cư Lộc vị, duyên đồ khất thực.
(Phá Quân hoặc Đại Tiểu Hao -hãm- cùng vị trí với Lộc là số ăn mày).
Tham hội vượng cung, chung thân thử thiết.
(Tham cư Tý Ngọ Mão Dậu, lại trúng chỗ vượng của tam hợp tuổi là số trộm cắp).
Sát cư Tuyệt địa, thiên niên yểu tự Nhan Hồi.
(Sát Tuyệt đồng cung, ngàn năm bạc mệnh, yểu như Nhan Hồi)
Tham tọa Sinh hương, thọ khảo vĩnh như Bành Tổ.
(Tham Tràng Sinh đồng cung thọ như Bành Tổ).
Kỵ ám đồng cư Thân Mệnh Tật Ách, trầm khốn uông doanh,
(Cự Kị cùng cư Mệnh Thân Tật thì mê muội, nghèo khổ, yếu ớt càng nhiều),
Hung tinh hội vu Phụ Mẫu Thiên Di, hình thương phá tổ.
(Hung tinh hội vào Phụ Mẫu, Thiên Di thì hình khắc, dễ bị phạt, bị thương, phá tán tổ nghiệp).
Hình Sát đồng Liêm Trinh vu Quan Lộc, gia nữu nan đào,
(Hình Sát và Liêm Trinh hội ở Quan Lộc thì gông xiềng bắt bớ là khó tránh)
Quan Phù gia Hình Sát vu Thiên Di, ly hương tảo phối.
(Quan Phù và Hình Sát ở Thiên Di thì đi xa kết duyên chồng/vợ).
Thiện Phúc cư Không vị, Thiên Trúc sinh nhai.
(Thiên Cơ Thiên Đồng đóng vào chỗ Không Vong thì dễ đi tu)
Phụ Bật đơn thủ Mệnh cung, ly tông thứ xuất.
(Phụ or Bật độc thủ ở mệnh là rời bỏ quê quán tổ tông, nếu là chi thứ trong Họ mà ko phải dòng trưởng thì thậm chí còn có thể đổi họ).
Thất Sát lâm vu Thân Mệnh gia ác sát, tất định tử vong.
(Thất Sát + hung sát tinh nơi Thân Mệnh là số chết yểu).
Linh Dương hợp vu Mệnh cung ngộ Bạch Hổ, tu đương hình lục.
(Linh (hỏa) Kình (đà) hội hợp ở Mệnh gặp Bạch Hổ là phải chịu lăng nhục, hình phạt, tra tấn).
Quan Phủ phát vu cát diệu,
(Quan Phủ mà thấy các Cát tinh thì hay)
Lưu Sát phạ phùng Phá Quân.
(Lưu niên sát tinh e ngại gặp Phá Quân vì dễ tai họa ập đến.
QNB chú: có người cho rằng “Lưu Sát” = Lưu Hà + Kiếp Sát thì mới đúng, ngẫm cũng có hợp cái lý về tai họa, nhưng theo mạch văn và lối dùng từ trong toàn bộ cuốn sách này thì “lưu sát” là ám chỉ những sát tinh theo lưu niên hạn như Kình, Đà).
Dương Đà bằng Thái Tuế dĩ dẫn hành, Bệnh Phù Quan Phù giai tác họa.
(Kình Đà nhờ vào Thái Tuế mà dẫn động lưu hành, Bệnh Phù và Quan Phù đều là tác nhân gây họa).
Tấu Thư Bác Sĩ dữ lưu Lộc, tận tác cát tường.
(Tấu Thư Bác Sĩ cùng Lưu Lộc Tồn đều tạo ra sự hết sức tốt lành).
Lực Sĩ Tướng Quân đồng Thanh Long, hiển kỳ quyền thế.
(Lực Sĩ, Tướng Quân và Thanh Long là hiển lộ về sự quyền lực, quyền thế).
Đồng tử hạn như thủy thượng phao ẩu,
Lão nhân hạn tự phong trung nhiên chúc,
Ngộ sát vô chế nãi lưu niên tối kị.
(Hạn của trẻ nít như là bọt bèo trên mặt nước
Hạn người già tựa đốm lửa giữa gió lộng
Lưu niên hạn gặp phải sát tinh mà không có cát tinh chế giải thì dễ mất mạng).
Nhân sinh vinh nhục hạn nguyên tất hữu hưu cữu,
Xử thế cô bần số trung phùng hồ bác tạp,
Học chí thử thành huyền vi hĩ.
(Hạn vinh nhục của đời người, nguyên trong lúc tốt cũng có 1 vài khi xấu và ngược lại,
Vị thế cô bần của người ta trong xã hội cũng bởi số mệnh toàn tạp mà không thành cách,
Học giả nắm được bấy nhiêu cũng gọi là nắm được lẽ huyền vi rồi).
2. Hình tính phú:
Nguyên phu tử vi đế tọa, sinh vi hậu trọng chi dung.
Thiên phủ tôn tinh, dã tác thuần hòa chi thể.
(Tử Vi nam mệnh thủ trung
Uy nghi phúc hậu hình dung an nhàn
Thiên Phủ tôn quý tinh bàn
Hành vi hòa nhã khoan khoan nhịp chèo)
Kim Ô phì mãn, Ngọc Thố thanh kỳ
(Thái Dương hơi mập tiếp theo
Thái Âm thanh tú trăng treo đêm rằm
Thiên Cơ vi bất trường bất đoản chi tư, tình hoài hảo thiện.
(Thiên Cơ bẩm tính thiện căn
Dáng hình dong dỏng nét văn nhân tài)
Vũ Khúc nãi chí yếu chí khẩn chi thao, tâm tính quả quyết.
(Vũ Khúc nhanh nhẹn chẳng sai
Tâm tính quả quyết, có tài lược thao)
Thiên Đồng phì mãn, mục tú thanh kỳ.
(Thiên Đồng phì mãn không cao
Mắt thời rất đẹp trông vào trong veo)
Liêm Trinh mi khoan khẩu khoát diện hoành, vi nhân tính bạo hảo phẫn hảo tranh.
(Liêm Trinh tính tựa cọp beo
Mày rộng miệng lớn thích theo công bình)
Tham Lang vi thiện ác chi tinh, nhập miếu tất ứng trường tủng, xuất viên tất định ngoan hiêu
(Tham Lang thiện ác chi tinh
Nhập miếu cao lớn thân hình nở nang
Nếu mà lạc hãm gian ngoan
Ngạo mạn phóng túng tham lam ai bằng).
Cự Môn nãi thị phi chi diệu, tại miếu đôn hậu ôn lương.
(Cự Môn là chúa thị phi
Nhập miếu đôn hậu cùng vì thiện lương).
Thiên Tướng tinh thần, Thiên Lương ổn trọng, tâm sự ngọc khiết băng thanh.
(Tinh thần ổn trọng Tướng, Lương
Băng thanh ngọc khiết tâm thường thanh cao)
Thất Sát như Tử Lộ bạo hổ phùng hà,
Hỏa Linh tự Dự Nhượng thôn thán trang ách.
Bạo hổ phùng hà hề mục thái hung ngoan,
Thôn thán trang ách hề ám lang thanh trầm.
(Thất Sát uy mãnh làm sao
Hổ dữ thét gào khi gặp khúc sông
Lấy tướng Tử Lộ mà trông
Mắt to, thần dữ chứ không hiền hòa
Hỏa Linh như quỷ dạ xoa
Dự Nhượng rạch mặt thù nhà chẳng quên
Thâm trầm tựa sói trong đêm
Nóng mà chẳng vội chí bền sức dai).
Tuấn nhã Văn Xương mi thanh mục tú,
Lỗi lạc Văn Khúc khẩu thiệt tiện nịnh,
Tại miếu định sinh dị chí,
Thất hãm tất hữu ban ngân.
(Văn Xương tuấn nhã mi thanh
Thông minh mắt sáng lại lanh lợi nhiều
Văn Khúc khéo nói khéo chiều
Quang minh nhưng dễ mang điều thị phi
Nhập miếu dị chí có khi
Lạc hãm có sẹo, da thì lổ loang).
Tả Phụ Hữu Bật ôn lương quy mô, đoan trang cao sĩ.
(Tả Hữu lương thiện đường hoàng
Tựa nguời chí sĩ nghiêm trang dáng hình).
Thiên Khôi Thiên Việt cụ túc, trọng hợp Tam Thai thập toàn mô phạm.
(Khôi Việt phong thái uy nghi
Gặp Tam Thai ấy, tức thì phép khuôn).
Kình Dương Đà La, hình xú mạo thô, hữu kiểu trá thể thái.
(Kình Đà hình xấu nét thô
Thế nhưng thường giả bộ làm mẽ cơ)
Phá Quân bất nhân, bối trọng mi khoan, hành tọa yêu tà gian trá hảo hành kinh hiểm.
(Phá Quân bạo bẽo ơ hờ
Mày rộng lưng dày, ngồi đứng giảo gian)
Tính mạo như xuân hòa ái, nãi thị Lộc Tồn chi tình đức.
(Lộc Tồn hòa ái nhẹ nhàng
Hình tươi dung đẹp xuân tràn khắp thân)
Tình hoài tự hỏa phong xung, thử thành Phá Hao chi uy quyền.
(Ham chơi tính cấp thập phần
Song Hao hội với Phá Quân uy quyền).
Tinh luận miếu vượng tối phạ không vong,
Sát lạc không vong cánh vô uy lực.
(Luận các sao, đã miếu vượng thì rất sợ gặp phải Không Vong,
Sát tinh mà gặp Không Vong thì cũng hoàn toàn chẳng có uy lực).
Quyền Lộc nãi cửu khiếu chi kỳ,
Hao tích tán bình sinh chi phúc.
(Chính Quyền Lộc khiến cho cửu khiếu -mắt, mũi, miệng, tai…- có nét đặc biệt,
Song Hao khiến cho bị tán mất cái phúc cái may vốn có).
Lộc phùng Lương Ấm bão tư tài ích dữ tha nhân,
Hao ngộ Tham Lang tuy dâm tình ư tỉnh để.
(Thiên Lương gặp Lộc là người ôm tài sản của mình đem đi làm từ thiện
Tham Lang (hãm) gặp Song Hao là kẻ có tính tình dâm đãng sâu xa).
Tham tinh nhập vu Mã viên dị thiện dị ác,
Ác diệu phù đồng Thiện diệu bẩm tính bất thường.
(Tham Lang đóng ở đất tứ Mã thì tính dễ thiện cũng dễ biến thành ác,
Ác sát tinh đồng cung với thiện tinh thì tính khí cũng thất thường).
Tài cư Không Vong ba tam lãm tứ,
Văn Khúc vượng cung văn nhất tri thập.
Ám hợp Liêm Trinh vi tham lạm chi tào lại.
(Tài tinh, tài cung ở chỗ Không Vong thì muốn 3 phải làm phải đọc 4, ý nói vất vả kém thông minh,
Văn Xương Văn Khúc ở chỗ vượng thì học 1 biết 10, ý nói thông minh.
Ám tinh mà hội hợp Liêm Trinh thì là lũ viên chức, quan lại tham nhũng).
Thân Mệnh ti số thực gian đạo chi kỹ nhi, trư đồ chi lưu.
Thiện Lộc định thị kỳ cao chi nghệ tế xảo, linh lợi chi nhân.
(Thân Mệnh mà gặp cách làm nghề gian đạo, phường đồ tể,
Có thêm Thiện tinh Lộc tinh thì đoán định là kẻ lanh lợi, tinh thông, cao tay, giỏi nghề).
Nam cư Sinh Vượng tối yếu đắc địa,
Nữ cư Tử Tuyệt chuyên khán Phúc Đức.
(Nam nhân mệnh ở chỗ Sinh Vượng thì phải xem có đắc địa không,
Nữ nhân mệnh ở chỗ Tử Tuyệt thì phải xem trọng cung Phúc Đức).
Mệnh tối hiềm lập vu bại địa,
Tài nguyên khước phạ phùng Không Vong.
(Mệnh rất kị an ở chỗ bại địa,
Tài tinh tài cung thì ghét gặp phải Không Vong).
Cơ Hình Sát Ấm Cô tinh luận tự tục chi cung, gia ác tinh Kị Hao bất vi kỳ đặc.
(Cơ Hình Sát Lương Cô Quả hội hợp khi luận cung Tử Tức, có thêm ác sát tinh với Kị Hao nữa thì chả có gì đáng kể. QNB chú: có lẽ ý muốn nói là tuyệt tự, ko có con cái).
Đà Hao Tù chi tinh thủ Phụ Mẫu chi triền, quyết nhiên phá tổ hình thương.
(Đà La + Hao + Liêm Trinh thủ cung Phụ Mẫu thì quyết đoán là khắc cha mẹ, phá tổ nghiệp, bị hình thương)
Kiêm chi đồng cách nghi tương, căn cơ yếu sát.
(Cộng thêm với xem cách cục và hạn của trẻ con sao cho thích hợp và chặt chẽ).
Tử Vi phì mãn, Thiên Phủ tinh thần.
Lộc Tồn lộc chủ dã ứng hậu trọng.
(Tử Vi béo tốt, Thiên Phủ lanh lợi.
Với cả Lộc Tồn cùng là phúc hậu cẩn thận, giàu có)
Nhật Nguyệt Khúc Tướng Đồng Lương Cơ Xương giai vi mỹ tuấn chi tư,
Nãi thị thanh kỳ chi cách, thượng trường hạ đoản mục tú mi thanh.
(Nhật, Nguyệt, Vũ Khúc, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Văn Xương đều có dung nhan đẹp đẽ, tuấn nhã, là cách “thanh kỳ”, thượng trường hạ đoản, mày thanh mắt sáng – QNB chú: khi chúng đắc miếu thì đều được liệt vào các tướng tốt, thanh nhã cao quý theo Nhân Tướng học).
Tham Lang đồng Vũ Khúc hình tiểu thanh cao nhi lượng đại,
Thiên Đồng như Đà Kị phì mãn nhi mục mục tiểu.
(Tham Lang với Vũ Khúc thì dáng hình nhỏ, thanh cao, bao dung,
Thiên Đồng cũng như Đà La, Hóa Kị thì phì mãn và mắt bé).
Kình Dương thân thể tao thương,
Nhược ngộ Hỏa Linh Cự ám tất sinh dị chí.
Hựu trị Hao Sát định chủ hình xú mạo thô.
(Kình Dương thì thân thể dễ có thương tích, nếu gặp cả Hỏa Linh Cự Kị thì tất sẽ có chí hướng quái lạ.
Lại gặp thêm Hao Sát tinh nữa thì nhất định dáng hình xấu xí, diện mạo thô kệch).
Nhược cư Tử Tuyệt chi hạn,
Đồng tử nhũ bộ đồ lao kỳ lực,
Lão giả diệc nhiên thọ chung.
(Nếu ở hạn của Tử, Tuyệt
Thì trẻ nít dễ phải bú ngoài, rất khó nhọc,
Và thọ mạng của người già cũng đáng lo như vậy).
Đó là cương lĩnh bên trong của Số,
Là then chốt tinh vi quan trọng.
Phải nghiền ngẫm chi thấu đáo,
Mà tham thấu cái lẽ huyền diệu.
3. Tinh Viên luận
Tử Vi là Đế tinh, lấy Phụ Bật làm trợ lý (tá nhị) phù tá, làm chủ đứng đầu chư tinh, đó chính là mạch nguồn của vận động trong Số. Là linh hồn của vạn vật, quản cả Nam Bắc đẩu tinh mà thành Số.
Đại để thì khi Thủy được khai thông thì âm dương Ký Tế, thủy mà thịnh thì dương bị tổn thương, hỏa mà thịnh thì âm bị diệt, hai đối tượng ấy quyết không thể thiếu hay thiên lệch hẳn đi được. Cho nên biết để đạt được cân bằng thì mới là tốt đẹp.
Dần là cung của Mộc, là thời điểm tam dương giao Thái, chỗ của thảo mộc bắt đầu manh nha. Cho tới Mão vị, thì Mộc của chúng rất vượng vậy. Tham Lang, Thiên Cơ được đắc miếu ở đây là vì thế, Thiên Tướng thuộc Thủy đến Dần lại vượng tướng, Cự Môn thuộc Thủy đến Dần được sơ thông, Mộc được Thổ vun trồng, lại được thêm Thủy tới để tưới tắm, tam phương mà được thêm Phá Quân thủy Văn Khúc thủy tương hội là đẹp tuyệt, nếu mà có thêm Lộc Tồn là tuyệt mỹ hoàn hảo.
Cự Môn thủy tới Sửu, Thiên Lương thổ tới Mùi, Đà La kim tới tứ mộ cung, nếu như chúng được gặp Kình Dương kim, bởi Thổ là mộ khố của Kim, thời Kim được hanh thông, lại thêm Thiên Phủ thổ Thiên Đồng thủy mà tương sinh cho nhau, đó là kim sấn thổ phì, thuận cái đức của chúng (thuận kỳ đức) mà Sinh, Thành.
Ngọ là chỗ của Hỏa, Tị là chỗ Tuyệt địa của Thủy và Thổ, thêm Hỏa của cung Ngọ nóng quá mà khiến dư khí truyền sang Tỵ, thì Thủy đảo luồng vận hành, Hỏa khí nghịch thì nó mãnh liệt, nhất định sẽ quy về Tị. Ngọ thuộc Hỏa đức, có thể sinh cho chỗ Tuyệt của Thổ, đó là lý do mà Liêm Trinh hỏa cư ở chỗ này. Đến chỗ Ngọ hỏa, vượng chiếu ly minh mà thấu đáo thông suốt trong ngoài (biểu lý), mà Văn Khúc thủy nhập miếu. Nếu hội Tử, Phủ thời Khôi tinh củng đẩu, thêm Thiên Cơ mộc, Tham Lang mộc, vậy là biến cảnh, càng thêm đặc biệt.
Thân Dậu là khí của Tây phương thái bạch, Vũ Khúc cư Thân là hảo sinh, Kình Dương tại Dậu thì thường dụng tính sát, thêm Cự Môn, Lộc Tồn, Đà La là thêm tính cấp – gấp gáp nóng vội, nếu được vận hành nghịch gặp thiện hóa để cảm hóa cái ác đi thì thực là tuyệt vời.
Hợi thuộc Thủy là đất của Văn Khúc, Phá Quân, là kẻ sĩ kẻ học trò văn minh thanh cao, là nguồn gốc liêm khiết của muôn vàn chi phái, như mạch đất của sông lớn chẳng bao giờ vơi cạn. Cư chốn Hợi vị tướng nhập thiên hà, đúng là vi diệu. Phá Quân thủy ở Tý là chỗ vượng của Thủy, nên như sóng to của biển lớn cuồn cuộn lên, thích hợp với việc trông coi ở ngoài xa mà không phù hợp với việc để kề cận bên mình, chỗ của Phá Quân đúng là ở đó, nếu cư tứ mộ là khắc, thổ choán hết chỗ của thủy nên nước tràn lan khắp chốn, nhất định cần được Vũ Khúc kim làm cho nguyên khí của nó không bị tuyệt mới là vi diệu.
Ngoài ra, chư tinh còn theo Thân Mệnh đưa đẩy, không thực nghiệm thì không thể đến với được cái huyền cái vi của chúng.
4. Đẩu số chuẩn thằng phú (Bài phú mực thước của môn Đẩu Số)
Mệnh cư Sinh Vượng định phú quý, các hữu sở nghi.
Thân tọa Không Vong luận vinh khô, chuyên cầu kỳ yếu.
(Mệnh ở chỗ Sinh Vượng định là phú quý, đương nhiên phù hợp.
Thân tọa chỗ Không Vong luận là thăng trầm, đúng vậy luôn).
Tử Vi đế tọa tại Nam cực bất năng thi công,
Thiên Phủ lệnh tinh tại Nam địa chuyên năng vi phúc.
(Các sao phải ở đúng vị trí của nó, mới là đắc miếu, thế mới tốt, chứ ở sai chỗ là thất hãm thì dẫu có là đế tinh thì chả làm được cái trò trống gì.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Thiên Cơ Thất Sát đồng cung dã thiện tam phân,
Thái Âm Hỏa Linh đồng vị phản thành thập ác.
(Các thiện tinh đồng cung với ác sát hung tinh thì mất đi tính thiện. Cũng như các sao có tính nhu mì mà gặp các sát hung tinh thì cũng trở nên ác độc.
QNB chú: Câu này là sử dụng phép ẩn dụ, không thể hiểu theo nghĩa đen được).
Tham Lang vi thiện tú nhập miếu bất hung,
Cự Môn vi ác diệu đắc viên vưu mỹ.
(Tham Lang vốn là hung tinh chủ thiện ác, khi nhập miếu chắc chắn lương thiện,
Cự Môn vốn là ám tinh chủ ám muội thị phi, khi đắc miếu cũng nhất định tốt đẹp).
Chư hung tại khẩn yếu chi hương tối nghi chế khắc,
Nhược tại Thân Mệnh chi vị khước thụ cô đơn.
(Các hung sát tinh ở vào cung quan trọng thì rất cần được khắc chế,
Nếu ở ngay chỗ Thân Mệnh thì lại cô đơn, tịch mịch).
Nhược kiến sát tinh đáo hạn tối hung,
Phúc Ấm lâm chi thứ ki khả giải.
(Nếu thấy sát tinh tới trong hạn thì rất hung hiểm,
Nhưng có Phúc Ấm Cát tinh lâm vào thì có thể giải được).
Đại để tại nhân chi cơ biến, cánh gia tác ý chi thôi tường.
(Đại để là ở cái cơ biến ứng xử của con người, thêm vào dự tính ý nghĩa để mà tỏ tường).
Biện sinh khắc chế hóa dĩ định cùng thông,
Khán hảo ác chính thiên dĩ ngôn họa phúc.
(Biện luận về sinh khắc chế hóa mà xác định cái lẽ cùng biến tắc thông,
Xem tốt xấu ngay thẳng chính trực để mà nói về họa phúc).
Quan tinh cư vu Phúc địa cận quý vinh tài,
Phúc tinh cư vu Quan cung khước thành vô dụng.
(Các sao chủ quan lộc quyền chức mà ở cung Phúc thì gần người quyền quý mà giàu có,
Thế nhưng các sao chủ phúc mà ở vào cung Quan thì lại chả có tác dụng khỉ gì cả).
Thân mệnh đắc tinh vi yếu, hạn độ ngộ cát vi vinh.
(Thân mệnh có sao đắc cách là quan trọng, đến hạn gặp cát tinh là được vinh hiển).
Nhược ngôn Tử Tức hữu vô, chuyên tại Kình Dương Hao Sát.
Phùng chi tắc hại thê thiếp diệc nhiên.
(Nếu nói về con cái là có hay không, chủ yếu tại vì Kình Dương, Hao, Sát tinh ở cung Tử Tức. Gặp chúng ở cung Thê thì cũng coi như là hại vợ khắc thiếp mà thôi).
Tướng mạo phùng hung tất đới phá tướng,
Tật ách phùng Kị định hữu uông doanh.
(Tướng mạo -tức phụ mẫu cung- gặp hung sát tinh thì kiểu gì cũng có phá tướng,
Tật Ách cung mà gặp Hóa Kị thì nhất định có bệnh hoặc tật như chân khuềnh, lưng gù).
Tu ngôn định số dĩ cầu huyền,
Canh tại đồng niên chi tương hợp,
Tổng vi cương lĩnh dung tác chuẩn thằng.
(Những lời định số để hòng biết cái huyền bí,
Thêm việc tương hợp theo năm nữa,
Tất cả là cương lĩnh để dụng như mực thước).
5. Đẩu số phát vi luận:
Sự khai mở về cách luận của Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh.
Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau,
từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác.
Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý,
Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp;
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát,
cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh.
Cát tinh nhập mệnh viên (miếu đắc) thì sẽ được cát lợi,
hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung.
Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa;
Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện.
Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm,
Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận.
Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa,
lập mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ bớt tham lam, ương bướng, ngu dốt.
Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương,
Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng vật chất trong nhà bị phá tán.
Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai,
Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái.
Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya,
Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi.
Tử Vi gặp Phá Quân thì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian,
Hồng Loan gặp (lầm) phải Tham Lang thì hành vi dâm dật.
Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn,
Tam cung mà huyền ảo thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu.
Sát tinh lâm vào tam vị, chắc chắc bất hòa với vợ con,
Cự Môn đến nhị cung, thì anh em vô tình vô nghĩa.
Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già;
Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường.
Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ,
Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường (đời) phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ.
Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
ác tinh ứng vào Mệnh cung thì nô bộc có sự tương trợ.
Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý,
Điền Trạch gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được.
Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định,
Tướng Mạo mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được.
Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai.
6. Tu bổ hiệu đính về đẩu số
Chư tinh cát đa phùng hung dã cát,
Chư tinh ác đa phùng cát dã hung.
(Nhiều cát tinh mà gặp ác tinh thì mất đi tính tốt đẹp,
Nhiều hung ác tinh mà gặp cát tinh thì mất đi tính hung).
Tinh canh triền độ,
số phân định cục.
(Sao thay đổi tính chất theo vị trí cung nó qua trên quỹ đạo của nó,
Số thì được phân định tùy theo cục).
Trọng tại khán tinh đắc viên thụ chế,
phương khả luận nhân họa phúc cùng thông.
(Quan trọng là xem sao miếu đắc, gặp chế hóa thế nào,
mới có thể luận về cái cùng hay thông về họa phúc của người ta được).
Đại khái dĩ thân mệnh vi họa phúc chi bính,
dĩ căn nguyên vi cùng thông chi cơ.
(Đại khái thì Thân Mệnh là chuôi cán của họa phúc,
mà căn nguyên là then chốt của cái sự cùng – thông).
Tử Vi tại mệnh Phụ Bật đồng viên, kỳ quý tất hĩ,
Tài Ấn giáp Mệnh Nhật Nguyệt giáp Tài, kỳ phú hà nghi.
(Tử Vi đồng cung với Phụ Bật ở mệnh thì tất nhiên sang quý đặc biệt,
“Tài Ấn giáp Mệnh”, “Nhật Nguyệt giáp tài” thì giàu có là chẳng phải nghi ngờ nữa).
Ấm Phúc lâm bất phạ hung xung,
Nhật Nguyệt hội bất như hợp chiếu.
(Ấm tinh Phúc tinh tọa thủ thì không sợ hung tinh xung chiếu,
Nhật Nguyệt đồng cung thì không đẹp như là chúng hợp chiếu).
Tham lang cư Tý nãi vi phiếm thủy đào hoa,
Thiên Hình tao Tham tất chủ phong lưu hình trượng.
(Tham Lang cư Tý gọi là “Phiếm thủy đào hoa” – chủ lãng đãng đa tình,
Thiên Hình gặp Tham thì chủ vì phong lưu mà mang họa đòn roi).
Tử Vi tọa mệnh khố tắc viết kim dư phủng trất liễn,
Lâm Quan an văn diệu hiệu vi cẩm nhạ thiên hương.
(Tử Vi ở chỗ Mộ khố của Mệnh thì viết là kề bên xe vàng của vua,
Lâm Quan mà an các Văn tinh thì gọi là áo gấm có hương trời).
Thái Âm hợp Văn Khúc vu Thê cung hàn lâm thanh dị,
Thái Dương hội Xăn Xương vu Quan lộc kim điện truyền lô.
(Thái Âm + Văn Khúc ở Thê cung = làm quan thanh cao chốn hàn lâm viện,
Thái Dương + Văn Xương ở Quan cung = được vua truyền gọi lên điện vàng).
Lộc hợp thủ Điền Tài vi lạn cốc đôi kim,
Tài Ấm cư Thiên Di vi cao thương hào khách,
(Lộc mà thủ hoặc chiếu cung Điền Tài là tiền cả đống, thóc cả kho,
Tài Ấm mà cư Thiên Di là kẻ thương gia giàu có hào phóng).
Hao cư bại địa duyên đồ cái cầu,
Tham hội vượng cung chung thân thử thiết.
(Hao cư bại địa là số ăn mày,
Tham hội vượng cung là là số trộm cắp).
Sát cư tuyệt địa sinh thành tam thập nhị chi Nhan Hồi,
Nhật tại vượng cung khả học bát bách niên chi Bành Tổ.
(Sát cư tuyệt địa là số yểu như Nhan Hồi,
Nhật ở vượng cung có thể thọ như Bành Tổ).
Cự ám đồng viên vu Thân Mệnh Tật Ách doanh sấu kỳ khu,
Hung tinh giao hội vu Tướng Mạo Thiên Di thương hình kỳ diện.
(Cự với Diêu Đà Kị mà cùng ở Thân Mệnh hay Tật Ách cung thì thân hình gầy và xấu,
Hung tinh hội chiếu ở Tướng Mạo (phụ mẫu cung) Thiên Di cung thì trên người và mặt có thương tật).
Đạo Hao hội Liêm Trinh vu Quan Lộc gia nữu tù đồ,
Quan Phù hội Hình Sát vu Thiên Di ly hương viễn phối.
(Đại Hao hội với Liêm Trinh ở Quan Lộc là dễ bị gông xiềng tù tội,
Quan Phù hội Hình Sát tinh ở Thiên Di là lấy chồng/vợ ở phương xa).
Thất Sát lâm vu hãm địa lưu niên tất kiến tử vong,
Hao Sát kị phùng Phá Quân Hỏa Linh hiềm phùng Thái Tuế.
(Thất Sát ở chỗ hãm địa, hạn lưu niên mà gặp thì dễ toi mạng,
Hao Sát tinh kị gặp Phá Quân, Hỏa Linh thì chớ có gặp Thái Tuế – gặp thì dễ có tai họa).
Tấu Thư Bác Sĩ tịnh Lưu Lộc dĩ tận hồ cát tường,
Lực Sĩ Tướng Quân dữ Thanh Long dĩ hiển kỳ uy phúc.
(Tấu Thư Bác Sĩ cũng như Lưu Lộc Tồn đều chủ mọi sự tốt đẹp – khi gặp trong hạn,
Lực Sĩ Tướng Quân cùng với Thanh Long là chủ về vinh hiển uy danh, rạng rỡ tổ tông).
Đồng tử hạn nhược thủy thượng phù phao,
Lão nhân hạn suy phong trung nhiên chúc.
Ngộ sát tất kinh, lưu niên tối khẩn.
(Hạn của trẻ con như bọt bèo trên nước,
Hạn của người già như đuốc giữa cuồng phong.
Gặp sát tinh thì đáng sợ, lưu niên hạn càng khẩn trương hơn nữa).
Nhân sinh phát đạt hạn nguyên tối phạ phù trầm,
Nhất thế truân chuyên mệnh hạn phùng hồ bác tạp.
Luận nhi chí thửu doãn hĩ huyền vi.
(Hạn phát đạt của người ta vốn rất sợ thăng trầm, phập phù,
Cả đời mà truân chuyên là bởi Mệnh, Hạn cả có thuần cách gì cả, toàn lẫn lộn cát hung.
Luận được vậy coi như là phù hợp với lẽ huyền vi).
7. Tăng bổ Thái Vi phú (Bổ xung thêm cho bài Thái Vi phú)
Di tiên sinh viết:
1- Đẩu số chi liệt chúng tinh,
do đại dịch chi phân bát quái,
bát quái phi thoán hệ bất minh,
ngũ tinh phi giảng minh hà thố,
thị dĩ quan đấu sổ giả, tái tam thẩm động tĩnh chi cơ,
2- Đệ nhất biện tân chủ chi phân,
động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
3- Quý bỉ dương đà, duy thị lộc tồn chi hảo ác, tiếu ngô nhật nguyệt dã.
4- Tư không kiếp chi hưng vong, sát hữu sát nhi vô hình, tuy sát hữu cứu;
hình hữu hình nhi dị đan, chung thân bất khắc.
5- Hỏa tinh vượng cung vi phú luận,
dương đà đắc lệnh khởi hung thần?
6- Lưỡng lân gia vũ thượng khả xanh trì,
đồng thất dữ mưu tối nan phòng bị.
7- Cân hỏa phần thiên mã,
trọng dương trục lộc tồn.
8- Kiếp không thân thích vô thường,
quyền lộc hành tàng mỹ định.
9- Quân tử tai khôi việt,
tiểu nhân dã dương linh.
10- Hung bất giai hung, cát vô thuần cát.
11- Chủ cường tân nhược, khả bảo vô ngu.
12- Chủ nhược tân cường, hung nguy lập kiến.
13- Chủ tân đắc thất lưỡng tương nghi,
hạn vận mệnh thân đương hỗ kiến.
14- Thân mệnh tối hiềm dương đà thất sát, ngộ chi vị miễn vi hung.
15- Nhị hạn thậm kỵ tham phá cự trinh, phùng chi định nhiên tác họa.
16- Mệnh ngộ khôi xương đương đắc quý, hạn phùng tử phủ định tài đa.
17- Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan phu tử nhị cung,
nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc,
hoặc phùng dương đà, tu đề khốc nhi lệ bất càn.
18- Nhược quan nam mệnh, thủy dĩ phúc tài vi chủ,
tái thẩm thiên di như hà, nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoạn.
19- Hạn phùng cát diệu, bình sinh vận dụng hòa hài;
mệnh tác hung hương, nhất thị cầu mưu trở ngữ.
20- Liêm lộc lâm mệnh, nữ đức thuần âm trinh khiết chi đức;
đồng lương thủ mệnh, nam đắc thuần dương trung chính chi tâm.
21- Quân tử mệnh trung diệc hữu dương đà tứ sát,
tiểu nhân mệnh trung khởi vô khoa lộc quyền tinh,
yếu khán đắc viên thất viên,
chuyên luận nhập miếu thất hãm.
22- Nhược luận tiểu nhi, tường thôi đồng hạn,
tiểu nhi mệnh sinh hung hương, tam ngũ tuế tất nhiên yểu chiết,
cánh hữu hạn phùng ác sát, ngũ thất tuế tất chí yểu vong.
23- Văn xương văn khúc thiên khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân.
24- Đa học thiểu thành, chỉ vi kình dương phùng kiếp sát.
25- Vi nhân hảo tụng, cái nhân thái tuế ngộ quan phù.
26- Mệnh chi lý vi, thục sát tinh thần chi biến hóa;
số chi lý viễn, tế tường cách cục chi hưng suy.
27- Bắc cực gia hung sát, vi đạo vi tăng;
mệnh ngộ hung tinh, vi nô vi bộc.
28- Như vũ phá liêm tham, cố thâm mưu nhi quý hiển,
gia dương đà không kiếp, phản tiểu chí dĩ cô hàn.
29- Hạn phụ vượng tinh, tuy nhược nhi bất nhược;
mệnh lâm cát địa, tuy hung nhi bất hung.
30- Đoạn kiều tiệt lộ, đại tiểu nan hành;
mão dậu nhị không, thông minh phát phúc.
31- Mệnh thân ngộ tử phủ, điệp tích kim ngân;
nhị chủ phùng kiếp không, y thực bất túc, mưu nhi bất toại.
32- Mệnh hạn ngộ nhập kình dương, đông tác tây thành.
33- Hạn thân tao phùng phủ tướng khoa quyền lộc củng, định vi phàn quế chi cao nhân.
34- Không kiếp dương linh, quyết tác cửu lưu thuật sĩ.
35- Tình hoài thư sướng, xương khúc mệnh thân;
quỷ trá hư phù, dương đà hãm địa.
36- Thiên ki thiên lương kình dương hội, tảo kiến hình khắc vãn kiến cô.
37- Tham lang vũ khúc liêm trinh phùng, thiểu thụ bần nhi hậu thụ phúc.
Thử giai đẩu số chi áo quyết, học giả thục chi.
Dịch nghĩa:
Luận về huyền vi
Hi Di tiên sinh viết:
1- Đẩu Số bày ra chúng tinh,
Do đại Dịch phân chia thành Bát Quái,
Bát Quái mà thiếu Thoán từ (lời luận đoán) thì cũng chẳng rõ nghĩa,
Ngũ Tinh mà không được giảng giải kỹ thì dùng làm sao được,
Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời.
2- Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,
Động-Tĩnh, tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!
3- Tự thẹn thay Kình Đà, chỉ trông coi tốt xấu của Lộc Tồn, mà (lại dám) cười Nhật Nguyệt ta vậy.
4- Ngẫm về hưng vong của Không Kiếp, sát thì có sát (nhưng) mà không Hình (khắc) cứng nhắc, tuy sát mà lại có thể cứu chữa;
Hình thì có Hình nhưng đơn giản dễ thay đổi, (về lâu dài) cả đời sẽ không khắc.
5- Hỏa tinh ở vượng cung thì luận là phú,
Kình Đà (ở chỗ) đắc lệnh há có còn là hung thần nữa sao?
6- Kẻ hung bạo ở ngay sát vách đôi bên nhà mình thì cũng còn có thể miễn cưỡng chống đỡ lại,
chứ người cùng nhà mà có mưu hiểm đen tối thì thực là khó phòng bị.
7- Cân đo sức nóng (hỏa phần), nghị lực của Thiên Mã,
coi trọng trục (của) Kình Dương Lộc Tồn.
8- Kiếp Không thì (coi) thân thích (là) vô thường,
Quyền Lộc thì định là tác phong cử chỉ tươi đẹp.
9- Quân tử (xét ở) tại nơi Khôi Việt,
tiểu nhân thì (xét ở) Dương Linh (Kình Đà, Linh Hỏa, viết tắt???).
10- Hung thì không có cái gì hoàn toàn hung, Cát thì cũng chẳng có cái gì thuần là cát.
11- Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại.
12- Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm.
13- (Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau,
vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau.
14- Thân-Mệnh rất sợ gặp Dương Đà Thất Sát, gặp thì khó tránh được hung hiểm.
15- Nhị hạn tối kị Tham Lang Phá Quân Cự Môn Liêm Trinh, gặp thì nhất định sẽ tác họa.
16- Mệnh gặp Khôi Xương được nhận (quan) Quý, Hạn phùng Tử Phủ xác định đó là lúc đa tài (đến lúc gặp thời để mà được thi thố với đời).
17- Phàm xem mệnh Nữ nhân, trước tiên xem ở hai cung Phu & Tử,
nếu gặp sát tinh, định là nhiều lần xuất giá mà lòng không yên,
hoặc phùng Dương Đà thì đó là khóc con cạn nước mắt.
18- Khi xem Nam mệnh, khởi đầu lấy Phúc & Tài làm chủ,
sau đó xét Thiên Di xem thế nào, nhị hạn (có) nguyên nhân hỗ trợ ra sao, (từ đó mới) cùng đoán ra cát hung như thế nào.
19- Hạn phùng cát diệu thì lúc bình sinh được mọi sự hoạt động hài hòa;
Mệnh lạc đến chỗ hung thì đúng là một thân mưu cầu mà toàn gặp gập ghềnh trở ngại.
20- Liêm Lộc lâm Nữ mệnh thuần âm thì đức hạnh trinh trắng, thanh khiết;
Đồng Lương thủ Nam mệnh thuần dương thì một lòng trung thành, chính trực.
21- Người quân tử thì ở trong cung Mệnh cũng có Dương Đà tứ sát,
Kẻ tiểu nhân thì ai dám bảo là không có Khoa Quyền Lộc ở trong cung mệnh nào,
(Cho nên) trọng yếu phải xem cung viên tốt xấu thế nào,
chuyên sâu luận vào các sao nhập miếu hay lạc hãm.
22- Nếu luận số tiểu nhi, phải suy xét thật tường tận về hạn của trẻ con,
Tiểu nhi mà Mệnh ở chỗ hung, thì dăm ba năm tất nhiên sẽ yểu chiết,
Lại thêm hạn phùng ác sát thì dăm bảy năm nhất định yểu vong.
23- (Có các sao) Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi, chẳng đọc thi thư gì cũng là kẻ có tài.
24- Đa học mà thiểu thành, chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp Sát.
25- Làm người giỏi lý lẽ, giỏi tranh cãi, khéo nói, đó là do Thái Tuế ngộ Quan Phù.
26- Cái Lý tinh vi của Mệnh, phải bám sát lấy sự biến hóa của các sao;
Cái Lý sâu xa của Số, phải xem cho tường tận sự hưng suy của cách cục.
27- Sao Tử Vi mà bị gia thêm hung sát tinh thì dễ theo đường tăng đạo;
Mệnh (kém) mà gặp phải hung tinh thì dễ thành thân phận kẻ hầu người hạ.
28- Như Vũ Phá Liêm Tham, có mưu sâu mà quý hiển,
Thêm (vào đó) Dương Đà Không Kiếp thì phản chuyển thành chí nhỏ mà cô đơn, nghèo hèn.
29- Hạn mà hai bên có vượng tinh thì dù hạn có nhược (kém) cũng được cứu giải,
Mệnh lâm vào nơi cát lợi thì dẫu gặp hung cũng chẳng có gì nguy hiểm.
30- Đại tiểu (hạn) khó khăn, gian khổ, khó đi,… là bởi vì “đoạn kiều tiệt lộ” (đây là 1 thành ngữ “đoạn kiều tiệt lộ” có nghĩa đen là “cầu bị chặt gãy, đường bị chặn”, nhưng có thể nghĩa bóng muốn ám chỉ việc hành hạn mà gặp phải Tiệt/Triệt lộ thì đó là coi như bị chặn phá, bị ngáng trở, bị gặp khó khăn,…);
Ở cung Mão Dậu mà gặp nhị Không thì lại là thông minh, phát phúc.
31- Mệnh Thân mà gặp Tử Phủ thì giàu có dồi dào vàng bạc (điệp tích kim ngân);
Nhị chủ (thường chỉ về Mệnh chủ & Thân chủ, nhưng trong trường hợp này thì nên hiểu Nhị Chủ = Tử & Phủ) phùng Kiếp Không thì mưu sự bất toại ý, thiếu ăn thiếu mặc (y thực bất túc).
32- Mệnh hạn mà gặp phải Kình Dương thì làm giả ăn thật, đánh ở đông mà được ở tây (“đông tác tây thành” đây cũng là 1 thành ngữ. Bạn đọc lưu ý chỗ này nên hiểu liền mạch với Mệnh Thân Tử Phủ ở trên thì mới đúng).
33- Hạn Thân mà phùng Phủ Tướng có Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì định là người đó sẽ đỗ cao, thăng quan lớn, phát tài lộc,… được vin cành nguyệt quế.
34- (Nếu mà gặp) Không Kiếp Dương Linh, thì quyết đoán là đi theo giới cửu lưu thuật sĩ.
35- Tâm tình dào dạt, thư thả sung sướng, ấy là do Xương Khúc ở Mệnh Thân;
Quỷ quyệt xảo trá, hão huyền chẳng thực, đó là bởi Dương Đà hãm địa.
36- Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương cùng hội, thì lúc nhỏ thời hình khắc (với người thân) về già thời cô độc.
37- Như gặp Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh, lúc nhỏ thời nghèo khó nhưng về già được hưởng phúc.
Đây đều là những bí quyết sâu xa của môn Đẩu Số, học giả nên nắm vững.
8. Chư tinh vấn đáp luận
Hỏi về Tử Vi chủ định như thế nào?
Đáp viết: Tử Vi thuộc Thổ, là đế tinh tôn quý tọa giữa trời, chủ chưởng quản then chốt của tạo hóa, thống trị nhân sinh. Dựa vào ngũ hành nuôi nấng vạn vật, là tạo định nên Số của Mệnh con người.
Sao an theo triền độ các cung các sở ti, theo niên số từng nơi từng năm mà chưởng quản tước lộc. Ở khắp các cung đều giáng phúc và thường tiêu giải cái ác. Xem ở Tam Thai thì Tử Vi thủ mệnh đúng là Trung Thai, trước nó 1 vị là Thượng Thai, sau nó 1 vị là Hạ Thai (QNB chú: chỗ này sách muốn đề cập tới việc xem trên Thiên Văn thì trông vào chòm sao Tam Thai của Thái Vi Viên, chòm này ở trên và chếch về phía Bắc so với chỗ của Ngũ Đế Tòa).
(hình ảnh minh họa QNB trích từ trang nhantu.net, còn trong sách TVDSTT không có).
Khán tại những chỗ mà nó miếu vượng, thấy thủ chiếu cát hung như thế nào để mà định hay dở. Như miếu vượng hóa cát thì cực kỳ tuyệt vời, hãm địa mà hóa hung thì vô cùng hung, hạn tốt lành chưa chắc đã hay nhưng hạn hung hiểm thì chắc chắn là hung hiểm. Thân Mệnh của người ta nếu được gặp Lộc Tồn đồng cung, Nhật Nguyệt tam hợp chiếu thì quý tới mức không lời nào tả xiết. Không có Phụ Bật đồng hành thì là cô quân, tuy coi là mỹ ngọc nhưng chưa đầy đủ cái hay. Nếu mà thêm chư sát tinh đồng cung hoặc chư hung tinh thủ chiếu thì coi như ở vào cái thế người quân tử lánh nơi thôn dã còn kẻ tiểu nhân đắc thời tại vị, bình sinh thường làm chuyện ác mà lại còn gian trá giả vờ lương thiện. Nếu cùng với Tù tinh đồng cư mà lại không có Tả Hữu tướng tá thì định là tư lại (tiểu lại, chức quan nhỏ). QNB chú: Tử Vi thì chẳng thể cùng (tù tinh) Liêm Trinh đồng cung, và cũng chẳng thể có được tam hợp chiếu của Nhật Nguyệt, nhưng ở trên đang dẫn dắt bằng “Thân và Mệnh” thì có thể hiểu được kiểu như Tử Vi tọa Mệnh đồng thời Thân cư Quan có Liêm Trinh…
Nếu như (Tử Vi) lạc vào các cung Tật Ách, Huynh Đệ, Nô Bộc, Tướng Mạo (Phụ Mẫu), bốn nhược cung, thì chủ nhân vất vả, làm việc khó thành, tuy đắc trợ cũng không coi là phúc. Cần xem thêm cho tường tận về cung độ tương thích, mà luận về ứng cứu của tinh triền.
Nếu cư Quan lộc, Thân, Mệnh, tam cung rất cần thiết có Tả Hữu tọa thủ. Thiên Tướng Lộc Mã giao trì, không lạc vào chỗ Không Vong, lại thêm là Mệnh tọa sinh hương, thì có thể luận là quý. Nếu như cùng Khôi Việt Tam Thai hội với các cát tinh thì tất sẽ làm quan cao tột bực. Đế hội Văn Xương củng chiếu, khi đến hạn tốt đẹp phù trì thời được tuyển chọn làm văn quan. Đế có thể hàng phục được Thất Sát thành quyền mà sử dụng, có thêm cát tinh đồng vị thì Đế và Tướng tất sẽ có khí lực, chư cát hội chiếu thì làm chức quan võ.
Tài Bạch, Điền Trạch có Tả Hữu thủ vệ, có Vũ Khúc Thái Âm đồng độ, không gặp ác tinh, tất sẽ giàu có hoặc làm quan giữ của cải. Thêm Lộc Tồn đồng cung Vũ Khúc trong Thân Mệnh thì càng đặc biệt kỳ diệu.
(Tử Vi) Tại Tử Tức cung mà đắc thì xem tỏ tường thêm có các cát tinh phù tá, chủ sinh quý tử. Nếu độc thủ ở tử tức mà vô tướng tá thì con cái ít ỏi, cô đơn.
(Tử Vi) Tại Thê cung hội các cát tinh, được quý và vợ chồng hòa thuận tới già, tất nhiên là không có sát phá tinh.
Thiên Di tuy là cường cung, (Tử Vi) cũng cần thiết có tướng tá phù trì, có cát tinh chiếu Mệnh thì tất sẽ được người người yêu quý.
(Tử Vi) Tại Phúc Đức cung đối với nam coi như hãm địa, đối với nữ lại coi là miếu nhạc, phùng cát thì tươi đẹp, phùng hung thì nguy hiểm.
Hi Di tiên sinh viết: Tử Vi đế tọa, tại chư cung thường giáng phúc tiêu tai, giải tính ác của chư tinh. Có thể chế được Hỏa Linh thành thiện, thường hàng phục được Thất Sát thành quyền. Nếu đắc Phủ Tướng, Tả Hữu, Xương Khúc và các cát tinh tụ tập thì chắc chắn sẽ quý hiển quan chức. Bằng không thì nhất định giàu sang vô cùng. Nếu mà có tứ sát xung phá cũng vẫn còn được coi là trung cục.
Nếu gặp Phá Quân chỗ Thìn Tuất Sửu Mùi cung, chủ luận là làm thần bất trung, làm con bất hiếu.
Nữ mệnh mà có Tử Vi thì đoán là quý phụ (làm phu nhân sang quý), nếu có sát tinh xung phá thì cũng vẫn bình thường, không bao giờ là hạng hạ tiện được.
Ca viết:
Tử Vi nguyên thuộc Thổ
Quan Lộc cung chủ tinh
Hữu tướng vi hữu dụng
Vô tướng vi cô quân
Chư cung thường ban phúc
Phùng hung phúc tự thân
Cùng Xương phát khoa giáp
Với Khúc hưởng hoàng ân
Có dấu hiệu tăng đạo
Hay phạm chủ đào hoa
Cát tinh mà củng chiếu
Lại hóa ra công bình
Nữ nhân hội Đế tọa
Gặp cát sự, quý nhân
Nếu gặp đào hoa hội
Phiêu đãng lạc phong trần
Kình Dương Hỏa Linh tụ
Phường trộm cắp tiểu nhân
Tam phương có cát củng
Thì bình là quý nhân
Nếu chẳng có Phụ Bật
Chư ác lại tương xâm
Đế vi vô đạo chủ
Khảo cứu kỹ mọi phần
Nhị hạn mà gặp Đế
Hỉ khí tự nhiên tân.
Ngọc Thiền tiên sinh viết:
Tử vi là trung thiên tinh chủ, là điểm then chốt của chúng tinh, là tạo hóa vậy. Đại khái là chủ tể của nhân mệnh, chưởng quản ngũ hành nuôi vạn vật, quản các ti các sở. Lấy Tả Phụ Hữu Bật mà làm tướng, lấy Thiên Tướng Xương Khúc làm tòng sự, lấy Khôi Việt làm truyền lệnh, lấy Nhật Nguyệt làm phân định tổ chức ti sở, lấy Lộc Mã làm chưởng ti tước lộc, lấy Thiên Phủ làm chủ ngân khố kho tàng, Thân Mệnh mà gặp, không cát mới là lạ. Nếu như gặp Tứ Stas (Kình Đà Linh Hỏa), Kiếp Không xung phá thì định là tăng đạo. Tử Vi mà tại mệnh thì là người nhân hậu ổn trọng, sắc mặt hồng tía, đoán là chuyên làm việc cát lợi.
Hỏi về Thiên Cơ chủ định thế nào?
Đáp viết: Thiên Cơ thuộc Mộc, là Nam đẩu đệ tam tinh, là thiện tinh có sở trường là tính toán mưu lược. Hóa khí là Thiện, lại hợp với những công việc trù liệu, có thể giải được sự thuận nghịch của chư tinh. Định số ở nhân mệnh, gặp chư cát tinh tụ hội tất vạn sự đều đẹp đẽ hiền hòa. Chuyên cần ở việc lễ Phật, kính trọng đối với lục thân (cha mẹ, vợ chồng, anh em…), dễ thuận ở ẩn lại cũng dễ thích hợp với tăng đạo. Chẳng bao giờ có tâm ác ngược bất nhân, mà lại có cơ trí ứng biến lanh lẹ, có trí nhớ tuyệt vời. Có kiến giải sâu sắc, sát thực, khi vào việc thì thẳng thắn chính trực. Nữ mệnh gặp nó là phúc, gặp cát tinh thì càng thêm cát lợi, nhưng gặp hung thì cũng thêm hung. Thiên Cơ mà thủ cung an Thân, gặp thêm Thiên Lương thì tất sẽ là người có tài nghệ cao cường, tay nghề tinh xảo đệ nhất. Học giả cần phải xem kỹ cho tường tận.
Hi Di tiên sinh viết: Thiên Cơ là sao tăng cường tuổi thọ, khi thủ ở Thân Mệnh là chủ nhân dị thường. Cùng Thiên Lương, Tả Hữu, Xương Khúc giao hội, theo văn thì thanh hiển, theo võ thì là bực trung lương.
Nếu cư hãm địa, tứ sát xung phá thì là hạ cục, hợp với cảnh thanh nhàn của cuộc sống tăng đạo.
Phàm nhập vào nhị hạn (nếu sáng sủa) thì gia cảnh sự nghiệp càng thêm hưng thịnh (QNB chú: nếu Cơ mờ ám gặp sát hung thì đương nhiên sẽ thay nghề đổi nghiệp, phá tán… nói chung là có sự biến đổi khi hạn gặp Thiên Cơ).
Nữ nhân có cát tinh củng chiếu thì chủ vượng phu ích tử. Có Quyền Lộc tất sẽ là bực phu nhân sang quý. Nếu lạc vào cách cụ có Kình Đà Hỏa Kị xung phá thì chủ hạ tiệntật, hình khắc.
Ca viết:
Thiên cơ Huynh đệ chủ
Nam đẩu chính diệu tinh
Tác sự thì thao lược
Bẩm tính rất thông minh
Tạo nên thượng cách tốt
Có thể sánh anh hùng
Hội cát chủ hưởng phúc,
Nhập cách cư hàn lâm
Cùng Cự Môn một chỗ
Võ chức áp biên đình
Gặp Quyền Sát cũng vậy
Chính trực lập công danh
Với Thiên Lương đồng độ
Hợp theo đạo với tăng
Nữ mệnh mà gặp vậy
Tính khéo dễ dâm bôn
Thiên Đồng cùng Xương Khúc
Hội chiếu chủ vinh hoa
Thìn Tuất Tý Ngọ địa
Nhập miếu có công danh
Nếu tại Dần Mão vị
Gặp Tứ Sát, Phá Quân
Kình Đà đến Linh Hỏa
Cùng hung sát hội vào
Tai họa thật đáng kinh
Vũ Ám Liêm Phá hội
Đôi mắt thiếu quang minh
Nhị hạn mà gặp nó
Tất có sự đổi thay.
Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Thiên Cơ nam đẩu thiện tinh, do đó hóa khí viết là Thiện. Trợ tá cho Đế lệnh mà hành sự, điều chỉnh được trật tự nghịch ngạo của các hung tinh. Định Số ở trong mệnh con người, nếu gặp cát thì tất là phú quý, nếu gặp sát tinh xung cũng sẽ tốt lành. Hiếu nghĩa với lục thân, chuyên cần lễ phật, chẳng hề bất nhân bất nghĩa, có chí linh hoạt biến thông. Nữ mệnh mà gặp, đa số chủ phúc thọ. Tại nơi miếu vượng là có uy lực, còn ở hãm địa thì vô lực.
Hỏi Thái Dương chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thái Dương tinh thuộc Hỏa, cũng là Nhật tinh vậy. Là biểu nghi của tạo hóa, tại Số chủ nhân có quý khí, có năng lực cả văn lẫn võ. Cùng chư cát tụ hội tất sẽ ban điều tốt lành cát tường, ở cùng chỗ với sao hắc ám thì tất sẽ lao tâm phí sức.
Nếu tùy xướng trong Thân Mệnh, cư nơi miếu nhạc là cực kỳ rực rỡ ở trong số, là cơ cấu then chốt của Quan lộc.
Sau nữa là hóa khí thành Quý, thành Lộc, vô cùng thích hợp ở Quan Lộc cung.
Với nam nhân thì coi như sao chủ về cha, với nữ nhân thì coi là chủ về chồng.
Mệnh gặp chư cát tinh thủ chiếu, được thêm Thái Âm cùng chiếu, thì chức cao và giàu có đều được toàn vẹn tốt đẹp.
Nếu cư Thân gặp cát tinh tụ hội, cũng có thể làm môn khách ở chỗ quý nhân, nếu không cũng là kẻ phụ tá cho bậc công hầu khanh tướng.
Phu Thê cũng là cường cung, người nam có chư cát tụ hội thì nhờ vợ mà được sang quý, quyền chức. nếu mà hãm địa lại gia thêm sát tinh thì hại vợ chứ chả tốt lành gì.
Tử Tức cung được Bát Tọa đồng cung, chư cát miếu vượng tụ hội, thì chủ sinh được quý tử, quyền bính không hề nhỏ chút nào.
Nếu ở Tài Bạch cung mà vượng địa, gặp cát tương trợ thì chẳng sợ Cự Môn đến gặp, vẫn được phú quý lâu dài. Nếu như cư vượng tướng mà không có Không Kiếp thì một đời chủ giàu có lắm.
Cư Điền Trạch cung được hưởng ấm trạch của cha ông, tổ tông. Nếu Tả Hữu và chư cát tinh tốt đẹp, đại tiểu nhị hạn đến đó thì tất sẽ có việc mừng hưng thịnh gia môn bất ngờ. Nếu hạn lại chẳng phù trì, không thể lấy tam hợp nghị luận được, e rằng có sai sót.
Nữ mệnh mà gặp nó, hạn vượng cũng vẫn có thể cộng hưởng (QNB chú: có lẽ muốn nói rằng vợ đến hạn có Thái Dương sáng + cát tinh, thì chồng cũng vẫn được hưởng lây).
Cùng với Linh, Hình tụ tập ở hạn, thì trước mắt có ưu phiền, hoặc là sinh khắc phụ mẫu. Hình Sát tụ hạn thì kẻ làm quan có ưu phiền về sự nghiệp, kẻ thứ dân lại dễ bị thị phi quan tụng quấy nhiễu. Cùng với Kình Đà tụ thì sẽ có tật bệnh, cùng Hỏa Linh hội hợp nữa thì đau khổ chẳng ít đâu. Theo đó mà suy ra họa phúc hiển hiện trước mắt. Thiên Di cung mà gặp các cách xấu kể trên là khó mà giữ được tổ nghiệp, xuất tổ ly gia, lìa cành đổi lá (ý nói dễ tán gia bại sản phải lưu lạc khỏi quê hương, bản quán). Hạn tới đó thì chắc chắn có sự di động. Nữ mệnh mà gặp thì cũng coi như chẳng có gì tốt đẹp, nếu may được Phúc Đức cung có tướng tá cát tinh thì lại là chiêu nạp được chồng tốt (QNB chú: phụ nữ xuất giá cũng coi như là di chuyển, xa tổ tông về làm con nhà người ta. Chứ ngày xưa thì phụ nữ chỉ có ở trong nhà, gặp hạn di chuyển mà ko phải là việc theo chồng thì sự di chuyển kia thường là những sự chẳng hay ho gì đối với gia cảnh).
Phụ Mẫu cung có Thái Dương tọa thủ thì nam coi đó là tượng của cha, nếu sáng đẹp thì là cát lành còn thất huy mờ ám thì là khắc cha.
Hi Di tiên sinh viết:
Sao Thái Dương trải qua vòng chu thiên mà chuyển mãi không ngừng. Mừng được Phụ Bật làm trợ lực cho biểu tượng, thích Lộc Tồn trợ phúc. Ghét gặp tụi Cự Môn với ám tinh. Khoái gặp Thái Âm miếu vượng. Ở khắp các cung gặp cát sẽ cát, gặp hắc ám thì tất sẽ lao lực. Thủ vào Thân Mệnh thì là người trung trực, ngay thẳng, không ưa đua chen thị phi. Nếu cư miếu vượng, lại hóa Lộc hóa Quyền, thì luận là rất Quý. Nếu đắc Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt tam hợp củng chiếu ở 2 cung Tài Quan thì phú quý cực phẩm. Thêm tứ sát thì cũng vẫn được no cơm ấm áo, hoặc là theo tăng đạo mà nhàn hạ. Nữ nhân miếu vượng thì chủ vượng phu ích tử, có thêm Quyền Lộc là dễ được phong tặng (tước vị phu nhân), thêm sát tinh thì lại chủ bình thường.
Ca viết:
Thái Dương nguyên thuộc Hỏa
Chính chủ quan lộc tinh
Nếu cư vào Thân Mệnh
Bẩm tính rất thông minh
Nhân từ và rộng lượng
Phúc thọ hưởng trường sinh
Nếu cùng Thái Âm hội
Chợt phát quý vô cùng
Sáng tỏ chiếu Thân mệnh
Ung dung nhập điện vàng
Cự Môn không xâm phạm
Lên điện hưởng ơn vua
Thiên viên gặp ám độ
Bần tiện khó nói hết
Nam nhân thì khắc cha
Nữ mệnh chồng chẳng vẹn
Gặp Kình Đà Linh Hỏa
Thì mắt tật đui mù
Nhị hạn mà gặp vậy
Tất bán sạch của nhà.
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Thái Dương thuộc ti quyền quý chủ về văn, nếu gặp Thiên Hình thì chủ về võ. Tại Dần Mão là mới mọc, tại Thìn Tị là lên tới điện. Tại Ngọ là Nhật lệ trung thiên (Mặt trời rực rỡ giữa bầu trời), chủ đại phú quý. Tại Mùi Thân là xế bóng, vào việc thì chủ chăm chỉ lúc đầu, lười biếng về sau. Tại Dậu là lặn xuống đàng Tây, quý mà chẳng hiển lộ được, đẹp mà lại hư ảo. Tại Tuất Hợi là mất sạch ánh sáng, nếu gặp thêm Cự Ám thì một đời lao lực nghèo nàn. Thêm vào đó là chủ nhân mắt kém hoặc có thương tật, với người khó hòa hợp, dễ chiêu thị phi. Nữ mệnh mà gặp thì coi là phu tinh chẳng được đẹp, gặp Hao là dễ kết hôn mà chẳng có làm lễ cưới gì cả. Nếu cùng Lộc Tồn đồng cung thì tuy là chủ tài bạch nhưng mà vẫn vất vả cực nhọc. Nếu cùng Tả Hữu đồng cung thì luận là quý. Nhưng lại có Hỏa Linh thì trước tiên không tránh được việc khắc cha. Với Thái Dương thì người nam thì lấy nó làm biểu tượng cho cha, người nữ lấy làm biểu tượng cho chồng.
Hỏi Vũ Khúc chủ định như thế nào?
Đáp viết: Vũ Khúc là sao thứ sáu thuộc Bắc đẩu, ngũ hành thuộc Kim, là chủ của cung Tài Bạch. Cùng Thiên Phủ đồng cung là thêm thọ, biểu thị và thi hành Quyền ở khắp mười hai cung. Chủ ở người có tính cứng rắn, quả quyết, có mừng có giận, có phúc có tai ương. Nếu hãm tù hội ở cung Chấn thì tất sẽ thành phá, chủ là kẻ cao sĩ ẩn mình. Cùng Lộc Mã giao trì thì phát tài nơi viễn xứ. Nếu cùng Tham Lang đồng cung thì là người ích kỷ, keo kiệt. Cùng với Phá Quân ở cung Tài (QNB chú: nguyên văn là “tài hương”, nay chú thêm là “ở Tài cung hoặc Vũ Phá đồng cung với sao chủ tiền tài như Lộc Tồn, Hóa Lộc,…”) thì tiền đến tay rồi lại trắng tay. Chư hung tinh hội tụ thì tất sẽ tác họa, chư cát tinh tụ tập thì thành cát tường tốt đẹp.
Hi Di tiên sinh viết: Vũ Khúc thuộc Kim, tại trời thuộc ti Thọ, vào số chủ ti Tài Bạch. Sợ gặp sao khắc chế nhập hãm (QNB chú: sao khắc chế của Vũ Khúc chính là Phá Quân), mừng được cùng với Lộc Tồn làm việc. Cùng với Thái Âm là tương hỗ về Quyền, làm trợ lý cho các sao Thiên Phủ, Thiên Tướng, lấy Tài Bạch và Điền Trạch để làm chỗ của ti sở chuyên trách.
Với ác Sát Hao Tù hội ở cung Chấn thì tất sẽ gặp họa cây đè, sét đánh, điện giật.
Cùng Phá Quân Tham Lang ở cung Khảm thì tất sẽ chủ đâm đầu xuống nước mà táng mạng (QNB chú: chỗ này đề cập đến Vũ Phá ở Hợi là hữu lý, chứ Vũ với Tham thì không thể cùng ở cung Khảm được, trừ phi Mệnh-Vũ Thân-Tham hoặc muốn nói người mệnh Vũ Khúc mà hạn lại gặp Tham Lang ở cung Khảm. Độc giả lưu ý).
Hội Lộc Mã thì phát tài ở phương xa.
Cùng với Tham Lang hội thì tất chủ thiếu niên bất lợi. Đó gọi là “Vũ Khúc thủ mệnh phúc phi khinh, Tham Lang bất phát thiếu niên nhân” (Vũ Khúc thủ mệnh thì phúc không hề nhỏ, Tham Lang thì không phát lúc còn niên thiếu).
Ở nơi miếu nhạc cùng với Đào Hoa tinh đồng cung thì chỉ biết lợi mình mà ko cần biết người khác có tổn thất hay không (QNB chú: Độc giả lưu ý, trong cuốn này không có sao Đào Hoa như ở Tử Vi Việt đâu ạ, mà Đào Hoa ở đây là ám chỉ Tham Lang, cái việc Vũ Tham thủ mệnh ích kỷ tổn nhân này cũng tương tự như bên trên có nói là “người ích kỷ, keo kiệt”).
Với Thất Sát Hỏa Tinh đồng cung thì do tiền tài mà bị gặp nạn, bị cướp.
Gặp Kình Đà tất sẽ cô đơn hình khắc, gặp Phá Quân thì khó mà quý hiển được. Nếu cùng với Phá Quân đồng cung, lại thêm là lúc lâm vào trong nhị hạn ở đó thì nhất định là chủ thị phi, bị phiền toái.
Vũ Khúc thủ mệnh, chủ nhân cương cường, quả cảm, quyết đoán. Người tuổi Giáp Kỷ được hưởng phúc dày, xuất tướng nhập tướng. Thêm đắc Tham Hỏa xung chiếu thì ấy là Quý cách. Lợi cho Tây Bắc sinh nhân, còn với người sinh Đông Nam thì bình thường, không thủ giữ tổ nghiệp. Nếu tứ sát xung phá thì tất sẽ hoặc là cô đơn hoặc là nghèo túng, phá tướng phá tuổi thọ.
Nữ nhân Vũ Khúc có nhiều cát tinh thủ chiếu tất là bực phu nhân sang quý, nếu thêm sát tinh xung phá thì cô đơn, hình khắc.
Ca viết:
(QNB chú: trong bản TVDSTT này, có lẽ do bị thất lạc mất phần ca quyết nên không có. Năm xưa cụ Vũ Tài Lục cũng phải dùng bài phú Nôm của ta để trám vào. Nay QNB xin bổ xung bài này – lấy từ cuốn “Đạo giáo Thiên Văn Lịch Toán học – Tử vi đẩu số nhất bản thông” NXB Đại học Thiểm Tây – để cho được đầy đủ. Độc giả tham khảo).
Vũ Khúc ti Tài Thọ
Tối hỉ Tài Bạch cung
Bình hãm sân tai ách
Kị ngộ Sát Kiếp Không
Phá Quân nãi kỳ chế
Liêm Trinh hỏa tắc xung
Dương Đà đồng độ họa
Giáp Kỷ diệc bất vinh
Thủ mệnh tam vô sát
Y lộc thực phong long
Dữ cát cộng trị thê
Nhân phụ thành phú ông
Dịch nghĩa:
Vũ Khúc chủ quản ti tài thọ
Mừng nhất là đến giữ Tài Bạch cung
Nếu vào đất hãm thì sinh tai ách
Rất kị các sát tinh cùng Kiếp Không
Nếu gặp Phá Quân thì bị khắc chế
Gặp người Liêm Hỏa thì bị xung đột
Đồng cung với Kình Đà thì gặp họa
Dù người Giáp Kỷ cũng chẳng vinh hoa
Thủ mệnh tam phương mà vô sát
Tiền đồ quan lộc thực thênh thang
Cung thê mà thủ cùng cát diệu
Nhờ vợ được giàu cỡ phú ông.
Hỏi Thiên Đồng chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thiên Đồng thuộc Thủy, là Nam đẩu đệ tứ tinh, là chủ quản của cung Phúc Đức. Lại nói: hóa khí là Phúc và rất mừng gặp các cát tinh, trợ phúc thêm tốt lành, là người liêm khiết, diện mạo và bẩm tính thanh kỳ. Ở nơi then chốt mà không bị kích động quá mức thì không sợ gặp Thất Sát xâm phạm, không e ngại các sát tinh cùng vây chiếu.
Nếu hạn mà gặp, lại có mệnh đắc địa, thì dù là ở khắp 12 cung thì nó vẫn ban phúc tốt đẹp, nếu không có phá cách thì nhất định là cát tường.
Hi di tiên sinh viết: sao Thiên Đồng thuộc Nam đẩu, là sao giúp ích cho việc tính toán bảo vệ sinh mệnh, hóa Lộc là Thiện, gặp cát tinh là tốt lành, giá trị đối với Thân Mệnh vậy. Chủ là người khiêm tốn, bẩm tính thì ôn hòa. Nhất định hiền từ và ngay thẳng, hòa nhã và tinh thông việc viết lách văn vẻ, có chí hướng ngoài dự tính, không kích động dữ dội. Không kị Thất Sát xâm phạm, chẳng kiêng dè các hung tinh đồng cung, ở trong 12 cung luận là phúc.
Gặp Tả Hữu Xương Lương thì quý hiển, lợi cho người tuổi Nhâm Ất Bính ở Tị Hợi là đắc địa. Không hợp với người tuổi Canh mà Mệnh cư ở Dậu, suốt đời không tuân theo.
Hội Tứ Sát ở Tị Hợi là hãm, dễ tàn tật cô đơn hình khắc. Nữ mệnh mà gặp có sát tinh xung phá thì hình phu khắc tử. Lương Nguyệt xung phá thì dễ tác hợp làm tì thiếp người ta, dễ hợp theo tăng đạo mà hưởng phúc.
(QNB chú: Sách không có phần viết của Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh và phần ca quyết, có lẽ bị thất lạc. QNB đã cố gắng tìm kiếm nhưng chưa có kết quả. Độc giả nào biết được, xin vui lòng bổ xung giúp, xin cảm tạ!).
Phần phú NÔM nói về Thiên Đồng)
Thiên đồng đầu lớn lưng dầy,
Hình thời phì mãn, tượng rày phương viên,
Ôn lương và lại hòa hiền,
Khoa, Quyền, Tấu hợp có quyền có uy.
Đồng đóng Mệnh tính hay canh cải,
Là sao thọ khảo phúc dầy đáng ghi,
Hỏa, Linh, Không, Kiếp xá chi
Gập Đồng bần khổ cùng thì u mê.
Thiên Lương, Nguyệt đức chiếu về
Ắt là mộ Phật hướng về tăng ni.
Đồng nơi Tuất, Ngọ yên vì
Hãm cung, nhưng tuổi Đinh thì hiển vinh,
Nếu có Hóa Kỵ thêm xinh,
Ấy là ứng hợp giúp thành giầu sang.
Đồng, Lương cùng hội Dần, Thân,
Vừa giầu, vừa thọ giữ phần yên vui.
Đồng, Lương, Linh, Kỵ, Quyền, Khôi,
Lại gia song Lộc hoạnh tài phú thương.
Đồng, Lương, Cự đóng ba phương,
Tam hóa, Tả, Hữu là người tài năng.
Đồng, Nguyệt cùng ở Ngọ cung,
Sát tinh hội, hợp kỷ công ấy nghề.
Nếu mà gặp được Kình dương,
Mà tuổi Bính, Mậu biên thùy tướng công.
Đồng, Nguyệt Tý gái hoa dung,
Gập Tang, Diêu, Khốc khóc chồng lắm phen.
Hỏi Liêm Trinh chủ định như thế nào?
Đáp viết: Liêm Trinh thuộc Hỏa, là Bắc đẩu đệ ngũ tinh. Tại đẩu thuộc ti phẩm cấp thứ bậc, tại Số thuộc ti quyền lệnh. Nếu không ở nơi miếu vượng mà gặp thêm Quan Phù thì vốn được viết là “hóa tù vi sát” (biến tù ra sát). Cư vào chỗ đó thì không thể giải được họa của nó, (hạn) gặp phải thì cũng chẳng thể lường được. Chủ người có tâm tính dữ tợn hung hãn, ngông cuồng, chẳng quen theo lễ nghĩa gì cả.
Gặp Đế tọa chấp chưởng uy quyền, ngộ Lộc Tồn thì chủ phú quý, ngộ Văn Xương thì hảo lễ nhạc, ngộ sát diệu lại hiển về võ chức.
Tại Quan Lộc cung có uy quyền còn tại Thân Mệnh thì là thứ đào hoa tinh.
Nếu cư vượng cung thì sẽ cờ bạc mê sắc dục mà dẫn đến tranh tụng kiện cáo (QNB chú: “vượng cung” ở đây ta nên hiểu giống như trong trường hợp câu “Tham hội vượng cung là số trộm cắp”, trong đó: vượng cung là Mệnh an ở chỗ Đế Vượng thuộc Vòng Tràng Sinh ẩn của các tam hợp tuổi. Đó là các cung Tý Ngọ Mão Dậu, lần lượt tương ứng với các tam hợp Thân-Tý-Thìn, Dần-Ngọ-Tuất, Hợi-Mão-Mùi, Tị-Dậu-Sửu) .
Hạn gặp Cự Môn ở nơi hãm địa tất sẽ dính vào thị phi mà kéo nhau ra kiện cáo. Gặp Tài tinh và Hao tinh hội hợp thì phá tán tổ nghiệp. Gặp Hình Kị thì tất sẽ không tránh được tai nạn đẫm máu. Ngộ Bạch Hổ thì khó thoát đòn roi, gặp Vũ Khúc nơi hãm hoặc đã bị quản chế thì e rằng dễ bị “mộc áp xà thương” (cây đè, rắn cắn, bị ngầm ám hại). Cùng với Hỏa tinh nơi hãm không thì sẽ chủ “đầu hà tự ải” (đâm đầu xuống nước mà táng mạng). Đi với Phá Quân với Nhật Nguyệt thì chẳng tránh được bị tật ở mắt.
Hạn mà gặp như thế thì tai họa là khó có thể bài trừ, hóa giải được.
Chỉ hợp với vị trí của cung Quan lộc và Thân Mệnh. Gặp cát thì phúc được tăng cường, phùng hung thì tất sẽ chẳng hiền hòa gì đâu. Nếu ở vào các tha cung thì họa phúc khó lường.
Ca viết:
Liêm Tham Tị Hợi cung,
Ngộ cát phúc tràn tốt tươi
Ứng quá sau ba mươi
Phòng lúc cuối chẳng thiện.
(Phụ họa thêm phần phú Nôm.)
Liêm Trinh hỏa diệu thân trường,
Lộ hầu lộ nhãn mặt mày vàng xanh,
tính thời táo bạo tương tranh,
Khi dữ khi lành lãng đãng phấn hoa.
Mùi cung vinh dự đó mà
Thân cung cự phú, Hợi ra bần hàn.
Liêm đắc địa Khúc, xương cùng
Là người văn võ anh hùng lược thao.
Liêm hãn Tỵ, Hợi xấu sao,
Lại gập hung sát lao đao trọn đời.
Liêm trinh, Quan phủ cùng nơi,
Hãm cung tai hại kiếp người ra chi.
Liêm mà gập được Tử vi,
Ở cung miếu, vượng quyền uy đó mà.
Gập Lộc tồn ấy phú gia.
Liêm, Tham, Sát, Phá phát đà võ công.
Nhưng Liêm vượng địa vẫn phòng
Chơi bời tửu sắc có lần công môn.
Liêm, Hao Tài, Mệnh cùng ngồi,
phá tan tổ nghiệp ra người bần nhân.
Liêm, Hỏa, Không, Kiếp, Phá quân,
Hãm cung thắt cổ, nợ trần hết duyên.
Hình, Diêu, Tham, Kỵ ngộ Liêm,
Ở cung Tỵ, Hợi là điềm mạng vong.
Liêm Trinh ở Mão, Dậu cung,
Sát tinh cùng hội công danh khó màng.
Liêm cùng Văn khúc khá toan,
đồng cung xuôi ngược mọi đàng khảm kha.
Trọng do uy mãnh ấy là,
Liêm trinh nhập miếu, hợp cùng Tướng quân.
Liêm, Kiếp, Kình dương khá phân,
Ở cung Mão, Dậu ắt phần ngục lao.
Liêm trinh Bạch hổ lâm vào,
hoặc là Tứ Sát tránh sao xích xiềng.
Liêm Tham đồng độ đảo điên,
Trai thì phiêu lãng, gái duyên dâm tàng.
Hỏi Thiên Phủ chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thiên Phủ thuộc Thổ, là Nam đẩu đệ nhất tinh, chủ về Lệnh. Là chúa tể của Tài Bạch, tại đẩu là sao thuộc ti Phúc, Quyền, hội cát tinh tốt đẹp là căn bản của sự Phú Quý, luận định là phát đạt về văn chương.
Hi Di tiên sinh viết: Thiên Phủ thuộc nam đẩu, là sao của duyên thọ và tiêu giải tai ách, lại viết là thuộc ti Mệnh. Là thượng tướng trấn quốc chi tinh. Tại đẩu thuộc ti Quyền, tại số thì là thần của việc chấp chưởng Tài Bạch, Điền Trạch và Y Lộc.
Là trợ lý cho Đế tinh, thường chế được Kình Đà tòng thuận, thường hóa được Hỏa Linh làm phúc. Chủ nhân tướng mạo thanh kỳ, bẩm tính ôn lương, đoan trang, tao nhã. Cùng với Xương Khúc hội thì tất sẽ đăng quang trúng tuyển. Gặp Lộc Tồn Vũ Khúc thì gia tài giàu có khổng lồ.
Bí kíp nói rằng: Thiên Phủ là kho tài lộc (lộc khố), Mệnh gặp nó thế nào thì giàu có đúng như vậy. Không ưa tứ sát xung phá, (vì nếu thế thì) tuy chẳng được quan quý, nhưng cũng chủ phú, được đầy đủ điền sản tài lộc.
Đóng vào cung Điền Trạch và Tài Bạch thì coi là miếu nhạc, còn đóng vào cung Tướng Mạo, tức Phụ mẫu cung, thì coi như hãm nhược (QNB chú: “miếu nhạc” và “hãm nhược” chỗ này là phép ẩn dụ, ý muốn nói là đa dụng/thiểu dụng hoặc hay/dở… như trong đoạn của Tử Vi đã từ dùng phép ẩn dụ này, không nên hiểu như thông thường “miếu nhạc = sáng sủa”, “hãm nhược = thất huy, ko có ánh sáng, mờ ám”). Đóng vào cung Huynh Đệ là bình thường. Mệnh mà gặp lại có được tướng tá nữa thì chủ phu thê tử tức không bị khuyết đâu.
Nếu gặp Không Vong thì đích thị là bị cô lập, không thể cứ đoán cứng nhắc cùng dạng như quy ước (bên trên) đâu nhé. Đại khái (lại đại khái nữa rồi, khổ quá cơ ) là có nhiều sao như Vũ Khúc, Lộc Tồn, Văn Xương Văn Khúc, thì chủ được cát lợi.
Lại viết: Sao này đóng ở cung nào cũng chủ tốt lành, nữ mệnh mà đắc thì thanh tao, chính chuyên, khéo léo, vượng phu ích tử. Kể cả có bị xung phá thì cũng luận là lương thiện, hoặc có dấu hiệu hợp với tăng đạo.
Ca viết:
Thiên Phủ là Lộc khố
Nhập mệnh cả đời giàu
Cỡ nứt bồ đổ vách
Của cải đếm không xuể
Nữ mệnh tọa khuê các
Nam nhân hưởng lộc trời
Nó chính là cát tinh
Khắp nơi không khuyết thiếu.
Hỏi Thái Âm chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thái Âm thuộc Thủy, là chủ của Điền Trạch, hóa khí là Phú, cùng với Nhật là phối ngẫu. Là nghi biểu của trời, có dụng theo thượng huyền và hạ huyền, khi tới chỗ sáng vàng lúc ở chỗ tối đen phân ra thành thế hay dở trong số định miếu nhạc. Chủ người thông minh tuấn tú, bẩm tính đoan trang, thanh nhã, dịu dàng, vẹn toàn cát lợi.
Thượng huyền là then chốt trọng yếu, Hạ huyền thì luận là giảm uy thế. Sở trị bất dĩ sở kiến vô phương (QNB chú: tạm thời chưa biết dịch ý này như thế nào, xin để nguyên văn 所值不以所見無妨), nếu cùng tọa ở chỗ Thái Dương, còn như Nhật đến Mão Nguyệt đến Dậu thì đều là chỗ vượng, là căn bản của phú quý vậy.
Mệnh tọa ở cung mà (Thái Âm) có ánh bạc quang huy rạng rỡ, thêm chư cát tinh đều hội tụ thì luận là được hưởng phúc.
Nếu như (Thái Âm) hãm địa thì tất sẽ bị mai một yếu kém về (công) danh.
Nếu ở Thượng Huyền, Hạ Huyền nhưng mà không gặp Cự Môn thì là tốt đẹp (QNB chú: Thái Âm làm thế nào mà gặp Cự Môn được??? có lẽ sách muốn nói đến trường hợp Mệnh có Thái Âm và Thân cư Phúc có Cự Môn, hoặc là lại dùng phép ẩn dụ để lấy Cự Môn mà ám chỉ tới Tam Ám là Riêu Đà Kị chăng. Độc giả lưu ý vậy!).
Nếu (Thái Âm) ở cung mà Thân cư, thì có mẹ nuôi, dì ghẻ, hoặc là bỏ nhà ly tổ.
Thân Mệnh (có Thái Âm) nếu thấy ác sát hội chiếu xung chiếu thì luận là bị thương hoặc tàn tật. Trừ phi theo tăng đạo thì lại phản chuyển thành được tốt lành. Lại như nếu cùng Văn Khúc đồng cư Thân Mệnh (có sát tinh xung chiếu như trên) thì nhất định sẽ là giới cửu lưu thuật sĩ.
(Thái Âm) Với nam chủ về người mẹ, lại cũng chủ về người vợ.
Hi Di tiên sinh viết: Thái Âm hóa Lộc với Nhật là phối ngẫu, lấy chỗ Mão Thìn Tị Ngọ Mùi làm hãm địa, theo nơi Dậu Tuất Hợi Tý Sửu mà đắc miếu.
Dậu vi tây sơn chi môn, vi đông tiềm chi sở (QNB chú: Câu này hơi khó cắt nghĩa, nhất là ở chữ “đông tiềm” nên xin để nguyên văn 酉為西山之門, 為東潛之所. Theo thiển ý của riêng QNB thì có lẽ sách muốn nói: Ở Dậu là cửa của các rặng núi đằng tây, khi nguyệt mọc đằng tây thì cũng tựa như lúc nhật mọc đằng đông, tới chỗ cung ấy vẫn bị coi là tiềm ẩn chưa lên ngôi lên điện. Cái tượng này cũng khá giống khi nói về Đông Cung Thái Tử, người kế vị ngôi vua nhưng chưa lên ngôi nên coi là tiềm long, là đông tiềm vậy. Mong độc giả cùng luận bàn cho rõ nghĩa hơn). Nó ngại Cự Môn mà đến trong triền độ, sợ Kình Đà đồng cung, (sợ) gặp Liêm tù xâm phạm, cũng như với Thất Sát tương xung, như thế thì e rằng cung viên không được đắc ý, nhất định luận là có thương tích, tàn tật.
Thái Âm thuộc Thủy, cũng là mẫu tinh, đồng thời là thê tú.
Nếu tại Thân Mệnh mà miếu nhạc, có cát tinh tụ tập thì chủ phú quý.
Tại Tật Ách cung mà ngộ Đà La là mắt có tật, gặp Hỏa Linh là tai nạn, thấy Tham Sát thì cũng tổn hại cho mắt.
Tại Phụ Mẫu cung, nếu như hãm địa thất huy mà lại gặp lưu niên Bạch Hổ Thái Tuế thì chủ về mẹ có tai họa.
Nó tuy là sao mang tính thuần hòa, nhưng mà lúc hãm địa (thất huy, mất ánh sáng) lại gặp khắc chế thì tất sẽ chẳng tốt lành gì. Nếu gặp Bạch Hổ, Tang Môn, Điếu Khách, thì ngay cả người vợ cũng cần phải cẩn thận (kẻo vợ lại gặp tai họa).
Thái Âm, Thủy, Bắc tinh ấy hướng,
Ở miếu cung tính vốn thanh tân.
Bính, Đinh cư Tý giầu sang,
Có lòng từ thiện, lại làng kinh luân.
Nguyệt miếu vượng trùng phùng Xương, Khúc,
Việt, Khôi, Khoa, Quyền Lộc, Đào, Hồng,
hội cùng Tả, hữu song song,
Giàu sang hồ dễ ai hòng dám tranh.
Hoặc là Nguyệt mệnh cung độc thủ,
Sinh vào đêm đúng buổi trung tuần,
Cũng là đẹp đẽ muôn phần,
Giảm đi nếu gập Triệt, Tuần án ngăn.
Ấy là số ly tông lập nghiệp,
Nhưng mắt đau hay liệt tuần hoàn.
Nguyệt gia gập Kỵ đồng sàn,
Không gia Sát, Bại ( tứ Sát, lục Bại ) giầu sang trọn đời.
Nguyệt miếu vượng là người to lớn,
Nếu hãm cung hơi ốm và cao,
Tính ưa ngâm vịnh tiêu dao,
Danh tài nếu có nhờ vào văn tinh.
Nguyệt hãm gập Triệt không thành quý,
Chỉ sợ Hình, Diêu, Tị (con rắn) tật nguyền.
Nữ lưu Nguyệt vượng như trên,
Là người nhan sắc đảm đang lợi chồng.
Nếu gập Triệt không làm lẽ (hay muộn)
Nếu gập Lương hãm địa đa dâm.
Mão cung đến Tị (con rắn) chớ nhầm,
Nguyệt Lường hội họp chịu phần khảm kha.
Hạn gập Nguyệt, Đà, Kình đáng ngán,
Ấy nhân ly, tài tán phải phòng.
Thái âm hội với Long trì,
Tuy xấu nhưng cũng được phần ấm thân.
Cung Thê hội Thái âm, Văn khúc,
Vợ cao sang tột bực nữ lưu.
Hỏi Tham Lang chủ định như thế nào?
Đáp viết: Tham Lang là sao thứ nhất thuộc Bắc Đẩu, là thần của cung Tật Ách. Ngũ hành thuộc Thủy, hóa khí là Đào Hoa, là tiêu chuẩn, chính là thần chủ của họa phúc. Nhận thiện ác mà phân định kẻ dối lừa người gian trá, thụ học các thuật của thần tiên. Lại giỏi ngâm thơ vịnh nguyệt, phiêu đãng phong lưu, biến khéo thành vụng.
Nhập cung miếu nhạc thì có thể là tốt lành nhưng cũng có thể là họa. Hội Phá Quân thì mê hoa luyến tửu mà táng mạng, cùng với Lộc Tồn thì có thể cát. Gặp hao nhân thì hư hoa, ngộ Liêm Trinh thì không thanh khiết, thấy Thất Sát hoặc kết phối (với người Thất Sát) thì bị hình khắc, bị hình phạt. Ngộ Kình Đà thì chủ có bệnh trĩ, phùng Hình Kị thì có sẹo hoặc lang ben, loang lổ trên da, nhị hạn mà gặp (như thế) thì họa không hề nhẹ chút nào.
Với Thất Sát cùng thủ ở Thân và Mệnh thì nam có thân thể của phường trộm cắp, nữ có thái độ của lũ vụng trộm (QNB chú: cái này có lẽ muốn nhấn mạnh về cái thần thái lén lút mà thôi). Chư cát có áp chế thì cũng không thể tạo thành phúc hậu được, còn bày hung sát mà tụ thêm vào thì càng tàng ẩn cái gian của nó. Vào việc thì khéo ẩn tàng biến trá, hư hoa chẳng thực gì cả. Với người kết giao thì về sâu bao nhiêu về sau cũng giả dối bạc bẽo bấy nhiêu.
Bởi thế mà nói: Thất Sát thủ Thân chung thị yểu, Tham Lang nhập miếu tất vi xướng (Thất Sát đóng ở cung an Thân thì chết non, Tham Lang nhập miếu tất sẽ là con hát, kỹ nữ. QNB chú: dịch nguyên văn chữ “nhập miếu”, những tôi cho rằng chữ “miếu” này là không đúng, phải là chữ “Mệnh”. Đã đề cập nhiều lần ở tuvilyso về câu này rồi).
Nếu cùng với Phá Quân cư ở Thân & Mệnh, lại thêm là ở chỗ vượng của tam hợp, thì nam giỏi uống rượu với cờ bạc du đãng, nữ thời cưới xin chẳng có mối mai gì sất, tâm tính trộm cắp dâm bôn, chẳng có phép tắc gì cả, bỏ nhà theo trai. Như thế chỉ mừng gặp Không Vong vì khiến cho biến ngược lại thành ra đoan chính.
Nếu cùng Vũ Khúc đồng độ thì xiểm nịnh gian tham, thường có tâm địa ích kỷ, cùng là chẳng có lòng cứu tế đối với người khác.
Với Liêm Trinh cùng, nhất định sẽ gặp hình phạt ở chốn công đường, nơi cửa quan. Tứ sát mà cùng thì nhất định là đồ tể. Kình Đà giao hội, tất sẽ làm quỷ phong lưu. Xương Khúc đồng độ, tất sẽ đa hư thiểu thực.
Với Thất Sát cùng triền thứ thì nam nữ đều tà dâm hư hoa. Cùng Cự Môn giao chiến thì thường chỉ có khẩu thiệt thị phi.
Nếu phạm vào chỗ Đế tọa mà không có chế hóa thì là người vô ích. Đắc Phụ Bật Xương Khúc giáp thì coi như là chế được nên chẳng luận như vừa rồi.
(Tham Lang) Hãm địa phùng sinh thì lại thành ra điềm lành, dẫu nhà có phá tán đi chăng nữa thì cũng sẽ một thời gian phát tài là gây dựng lại được.
Chỉ duy hội với Hỏa Linh thì thường phú quý, đẹp ở Tài Bạch với Vũ Khúc Thái Âm cùng, nếu mà cuối cùng không tự hưng thịnh được thì tất là do bởi dâm dật. Tại Huynh Đệ, Tử Tức thì đều coi như là hãm địa. Tại Điền Trạch thì phá đãng tổ nghiệp, trước giàu sau nghèo. Vào Nô Bộc cung mà lại là miếu vượng thì tất sẽ vì nô bộc trong nhà mà phá tán. Ở Phu Thê Cung Tử Tức cung đều là không được đẹp, vào Tật Ách cung có Kình, Đà, Ám, Sát tinh giao hội thì mang bệnh tật bởi vì tửu sắc. Cung Thiên Di mà nếu như ở đất Hỏa (có Tham Lang), gặp Phá Quân với Ám, Sát tinh, lúc đến hạn gặp thêm các lưu niên tuế sát trùng điệp, thì tất sẽ chủ bị binh lửa chiến tranh, đạo tặc xâm phạm. Nói tóm lại là, dẫu nam hay nữ mà chẳng gặp được nó ở chỗ đắc địa thì sẽ không bao giờ được thấy cái tốt của nó.
Hi Di tiên sinh viết: Tham Lang là Bắc Đẩu giải ách chi thần, là sao của sự cao minh, khí của nó thuộc Mộc mà thể của nó thuộc Thủy, lại hóa khí là Đào Hoa. Là thần chủ của họa phúc, tại số tất chủ lạc thú của sự phóng đãng. Ngộ cát thì chủ phú quý, gặp hung thì chủ hư ảo phù phiếm. Chủ nhân lùn bé, tính cương mãnh, mưu sâu tính xa, theo sóng mà phiêu lãng, yêu ghét khó lường. Cư chỗ miếu vượng gặp Hỏa Linh thì theo võ chức se phát quyền quý, người sinh năm Mậu Kỷ hợp cục. Gặp Thiên Tướng thêm thọ, hội Liêm Vũ thì khéo tay nghề, đắc Lộc Tồn thì lại thích nghi với tăng đạo. Sát Phá tương xung, phiêu bồng qua ngày đoạn tháng. Nữ nhân hình khắc, không thanh khiết, gặp Thái Âm thì chủ dâm dật.
Hỏi Cự Môn chủ định như thế nào?
Đáp viết: Cự Môn thuộc hành Thủy, Kim. Là sao thứ hai thuộc Bắc Đẩu, là sao thuần âm, hóa khí là Ám. Tại Thân Mệnh thì một đời chiêu chuốc khẩu thiệt thị phi; tại Huynh Đệ thì cốt nhục tham gia thương nghiệp; tại Phu Thê chủ nên cảnh giác kẻo sinh ly tử biệt, (nếu không cảnh giác mà) buông lỏng thì phu thê có chống đối, sẽ không tránh được sự ô danh thất tiết; tại Tử Tức thì chiêu chuốc tổn hại cho con cái, tuy có mà như không; tại Tài Bạch có tâm ý cạnh tranh; tại Tật Ách gặp Hình Kị thì có tai nạn cho mắt, sát tinh lâm vào là chủ tàn tật; tại Thiên Di thì chiêu chuốc thị phi việc rắc rối; tại Nô Bộc thì bị kẻ dưới thường xuyên oán trách, tại Quan Lộc chủ chiêu chuốc hình trượng đòn roi; tại Điền Trạch thì phá đãng tổ nghiệp; tại Phúc Đức thì họa của nó hơi nhẹ; tại Phụ Mẫu thì bị từ mặt (cắt đứt tình nghĩa cha mẹ con cái).
Hi Di tiên sinh viết: Cự Môn tại trời thuộc ti phẩm vạn vật. Tại số thì chấp chưởng thị phi, chủ về ám muội, nghi thị đa phi (ngờ vực cái đúng mà lại có nhiều cái sai), lường gạt trời đất, tiến thoái lưỡng nan. Tính của nó thì hướng mặt về đúng mà quay lưng với cái sai, với lục thân thì không hòa hợp, kết giao với người thì lúc đầu thiện về cuối lại bạc ác. Ở khắp 12 cung nếu như mà không lâm vào chỗ miếu nhạc thì bôn ba cực khổ, đến đâu thì họa ở đó. Thậm chí là ở Dần Thân Tị Hợi thì tuy phú quý nhưng không bền. Hội Thái Dương thì cát hung tương bán, gặp Thất Sát thì chủ bị sát thương. Tham Hao đồng hành thì thừa dịp tốt kết hôn với môn đồ. Ngộ Tử Vi thì tất sẽ chế cái tính cương cường của nó. Phùng Lộc Tồn thì giải được cái tai ách của nó, còn gặp Kình Đà thì nam tăng đạo nữ ca kỹ.
Đối cung mà gặp Hỏa Linh, Bạch Hổ, không có Đế tinh áp chế, nhất quyết là lấy vợ/chồng ở xa. Tam hợp gặp sát vây chiếu, thì tất sẽ bị rắc rối với tai ách lửa điện, nó chính là của cái số cô độc, là thần của sự bóc lột người khác. Trừ khi là tăng đạo hay cửu lưu thuật sĩ, nếu không thì khó mà tránh được tính kiêu ngạo, hao tổn tinh thần, hạn mà gặp hung diệu thì tai nạn không nhẹ.
Hỏi Thiên Tướng chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thiên Tướng thuộc Thủy, là sao thứ năm thuộc Nam đẩu. Là sao của Tước hàm, là Phúc Thiện, hóa khí là Ấn, đích thị là quan lộc văn tinh, phù tá cho Đế tinh. Nếu Thân Mệnh mà gặp thì ngôn ngữ thành thực, việc làm chẳng dối lừa. Thấy người gặp khó thì lương tâm động lòng trắc ẩn, thấy kẻ bạc ác thì tỏ cái chí khí bất bình. Quan Lộc mà đắc thì sẽ hiển vinh, hợp với Đế ở 1 chỗ thì tất sẽ tranh quyền. Phù tá cho ánh sáng của Nhật Nguyệt, đồng thời hỏa giải cái ác của Liêm Trinh. Thân Mệnh đắc thì vinh dự; Tử Tức đắc thì con cái thành đạt, ở khắp 12 cung đều là phúc tốt đẹp cát tường, không tùy xuôi theo ác, mà có thể biến chí và hoán cải cái ác cũng như kẻ bất nhân. Hạn mà gặp thì giàu có khó lường lắm. Thiên Tướng mà lâm vào chỗ sinh vượng, tuy không gặp Đế tinh, nếu đắc Tả Hữu thì tất chấp chưởng chức quyền uy phong lắm. Nếu cư vào chỗ nhàn nhược, cũng tạo tác điều cát lợi, nhị hạn mà gặp thì chủ phú quý.
Hi Di tiên sinh viết: Thiên Tướng nam đẩu đẩu tinh, thuộc ti Tước hàm, hóa khí là Ấn. Chủ nhân được được hậu hĩnh đầy đủ cơm áo, nếu hội Tả Hữu Xương Khúc thì tước vị tầm cỡ Công Khanh. Hãm địa gặp Tham Liêm Vũ Phá Kình Đà Sát tụ tập vây chiếu thì nhờ vào nghề khéo léo mà yên thân. Hỏa Linh xung phá thì tàn tật. Vào nữ mệnh chủ đoan trang, thông minh, chí khí có khi vượt quá cả đấng trượng phu. Tam phương cát tinh củng chiếu thì luận là được phong tặng, nếu Xương Khúc xung phá thì là thiếp, đi theo đường tăng đạo thì chủ thanh cao.
Ca viết:
Thiên Tướng nguyên thuộc Thủy
Hóa Ấn chủ quan lộc
Thân Mệnh nhị cung phùng
Định là nhiều tài phúc
Hình thể có phì mãn
Ngôn ngữ không hách dịch
Làm quan chủ thăng tiến
Ở nhà chủ phú ông
Nhị hạn mà gặp nó
Trăm sự được sung túc.
Hỏi Thiên Lương chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thiên Lương thuộc Thổ, là sao thứ hai của Nam đẩu. Thuộc ti Thọ, hóa khí là Ấm là Phúc Thọ, là chủ của Phụ Mẫu cung, có thể hỏa giải tàn nhẫn thành hòa nhã tốt lành. Ở nhân mệnh thì tính tình ngay thẳng lỗi lạc, ở Tướng Mạo thì nhân hậu ổn trọng, khiêm nhường, chính trực vô tư. Vào việc thì quả quyết, che chở tạo phúc cho bản thân cũng như con cháu họ hàng. Gặp Xương Khúc ở Tài cung, gặp Thái Dương ở tam hợp Phúc Đức thì được thanh danh vẹn toàn mọi bề. Vinh hiển ở chức vị như vương thất, được gia phong hiến tặng. Nếu gặp Hao tinh, lại thêm Tham Cự đồng độ thì loạn lễ nghĩa loạn cửa nhà. Cư chỗ Nô Bộc, Tật Ách, Tướng Mạo thì luận là về tác phong có những động tác thừa thãi. Thấy Liêm Trinh Hình Kị thì không phải lo lắng về tai ách, hình khắc, kích động; gặp Hỏa Linh Hính Ám cũng chẳng sợ sự phiền nhiễu của chinh chiến. Thái Tuế hòa làm Phúc, Bạch Hổ lâm mà không ngại tai ương. Luận về tính chất của Thiên Lương, xác quyết là cái lý cùng thông vậy. Mệnh cung hoặc đối cung có Thiên Lương thì chủ sống lâu, là sao vô cùng cát lành vậy.
Hi Di tiên sinh viết: Thiên Lương là sao thuộc Nam đẩu ti Thọ, hóa khí là Ấm là Thọ. Phụ tá cho quyền hành của Đế, là chủ của Phụ Mẫu, chủ người thanh tú ôn hòa, có hình dáng và thần thái ổn trọng, tính tình ngay thẳng, thiện nghệ đối với binh pháp. Đắc Xương Khúc Tả Hữu gia hội, tước vị cỡ Tam Công. Tại Phụ Mẫu cung thì nhân hậu, ổn trọng, uy nghiêm, hội với Thái Dương nơi Phúc Đức thì được quý đến cực phẩm. Người sinh năm Mậu Kỷ là hợp cục, nếu Tứ Sát xung phá thì như mầm non chẳng vươn lên được, gặp Thiên Cơ và Hao tinh thì dễ theo tăng đạo hưởng thanh nhàn. Với Tham Cự đồng độ thì thành ra suy bại về luân lý, loạn về phong tục. Tại Nô Bộc Tật Ách thì tác phong dư thừa. Gặp Liêm Trinh Hình Kị thì không lo về hình khắc xung đột. Hỏa Linh Ám mà gặp thì cũng chẳng cần e ngại chiến chinh quấy nhiễu. Thái Tuế xung cũng là phúc, Bạch Hổ hội cũng vô tai vô nạn. Tấu Thư hội thì có điềm vinh hiển ở bên ngoài, Thanh Long mà động thì tất sẽ có văn thư báo tin vui, hỉ sự. Đại Tiểu Hao mà giao hội thì việc công cán không thành công, Bệnh Phù Quan Phù tương xâm thì không luận là tai họa. Nữ nhân có cát tinh nhập miếu thì vượng phu ích tử, Xương Khúc Tả Hữu phù trì thì được phong tặng, Kình Đà Hỏa Kị xung phá thì tất sẽ chiêu thị phi không trong sạch, hợp với tăng đạo.
Ca viết:
Thiên Lương nguyên thuộc Thổ
Nam đẩu tối cát tinh
Hóa Ấm, Danh, Diên Thọ
Sao chủ Phụ Mẫu cung
Ở Điền Trạch, Huynh Đệ
Đắc thì phúc tự sinh
Hình thần tự ổn trọng
Tâm tính thật hòa bình
Cuộc đời không tai nạn
Văn chương có thanh danh
Với lục thân hòa ái
Làm quan ở triều đình
Cự Môn nếu tương hội
Lao khổ trải đắng cay
Nếu gặp Thiên Cơ chiếu
Vào rừng núi đi tu
Cơ Lương nơi Thìn Tuất
Luận phúc thọ vô cùng.
Hỏi Thất Sát chủ định như thế nào?
Đáp viết: Thất Sát là sao thứ sáu thuộc Nam Đẩu, ngũ hành thuộc Hỏa, Kim. Là thượng tướng trong các sao, là cô thần của trong thành bại. Tại đẩu thì thuộc ti quyền bính của các sao, chủ về phong hiến. Uy phong của nó được lấy làm anh linh của kim, tính khí của nó dường như rất lạnh lùng. Chủ vào số hợp với tăng đạo, chủ vào thân định là trải qua gian khổ. Tại Mệnh cung mà nếu hạn không phù trì cho thì chết yểu, tại Quan Lộc đắc địa thì hóa họa thành tốt lành. Tại Tử Tức thì con cái cô đơn; cư Phu Thê thì chia loan rẽ thúy, phòng không lạnh lẽo nửa chừng. Hội Hình Tù ở Điền Trạch Phụ Mẫu thì hình khắc tổn thương cha mẹ, khó mà lưu giữ được sản nghiệp. Gặp Hình Kị Sát ở Thiên Di, Tật Ách, thì chung thân tàn tật, khiến cho cả đời cô độc, cũng ứng với tuổi thọ không được lâu dài. Cùng với Tù tinh ở Thân Mệnh thì chân gãy tay thương, lại chủ bệnh lao, phổi bị tổn thương. Hội Tù Hao tinh ở Thiên Di là bỏ mạng ở trên đường. Nếu lâm vào cung chính âm thì tác họa nặng nề. Lưu niên sát diệu chớ có gặp, bản Thân có sát tinh mà Thìn Tuất cũng thêm sát nữa, bản Thân có Thất Sát phùng ác tinh ở nơi trọng yếu, Mệnh lại gặp sát diệu ở tam phương, lưu sát lại thêm sát, nhị hạn mà gặp như thế thì chỉ có chết trận mà thôi. Hội hợp với Thái Dương Cự Môn ở chỗ Đế Vượng thì cát lành, ở chỗ Không Vong mà phạm phải Hình sát thì gặp họa rắc rối không ít. Đại tiểu nhị hạn hội hợp và Thân Mệnh thì kể cả có Đế tinh chế hóa vẫn thành không công. Tam hợp với đối xung có Lộc Tồn thì cũng vô lực. Có cái thế anh hùng mà bị kiềm chế thì cũng tan tành giấc mộng Nam Kha. Nó mà nhập hạn thì phải coi cẩn thận, tỉ mỉ chỗ trọng yếu bởi vì nó là ác diệu ở trong số chứ chẳng phải thiện tinh gì đâu.
Hi Di tiên sinh viết: Thất Sát tại đẩu là thượng tướng, gặp Tử Vi thì hóa Quyền giáng Phúc, ngộ Hỏa Linh thì uy sát của nó càng dai dẳng. Gặp hung diệu ở Sinh hương thì xác định là đồ tể, hội Xương Khúc chỗ yếu địa thì tính tình tham lam ngu dốt lại còn ngông nghênh (QNB chú: nguyên văn là chữ “ngoan hiêu – 頑囂”, với “ngoan” = tham lam, ngu ngốc, ương bướng,… và “hiêu” = ngạo mạn, làm ồn ào,… giới trẻ ngày nay có 1 thành ngữ xì-tin rất hợp cho 2 từ này là “đã ngu còn tỏ ra nguy hiểm”). Bí Kinh nói, “Thất Sát cư hãm địa, trầm ngâm phúc bất sinh” chính là vì thế. Thân Mệnh nhị cung mà gặp thì định là phải trải qua cay đắng khổ sở, nhị hạn mà gặp thì gặp tai ương phá bại. Gặp được Đế & Lộc thì có thể giải được, gặp thêm lưu niên sát tinh thì sẽ gặp phải hung hiểm. Thủ nơi Thân Mệnh thì vào việc không dứt khoát, mừng giận thất thường. Tả Hữu Xương Khúc nhập miếu củng chiếu thì chấp chưởng quyền sinh quyền sát, phú quý xuất chúng. Nếu mà Tứ Sát Kị tinh xung phá thì lại là người bình thường có tay nghề khéo léo mà thôi, còn như hãm địa nữa thì thành ra bị tàn tật. Vào nữ mệnh lại ở nơi vượng địa thì chí khí còn hơn cả đấng trượng phu, có của cải quyền lực khiến cho người khác khâm phục. Nếu có Tứ Sát xung phá thì hình khắc, không trong sạch, hợp với tăng đạo, mà thêm sát tinh vây chiếu thì phiêu đãng phong trần, có đi tu thì cũng hoàn tục.
Ca viết:
Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ cung
Bốn bể chắp tay phục anh hùng
Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội
Quyền-lộc-danh cao thực vạn chung
Sát cư hãm địa khó nói hết
Hung họa như ôm hổ ngủ cùng
Nếu mà sát mạnh không gặp chế
Ác nạn yểu vong hết vẫy vùng.
Hỏi Phá Quân chủ định như thế nào?
Đáp viết: Phá Quân thuộc Thủy, là sao thứ bảy của Bắc Đẩu, là thần quản các ti Phu Thê, Tử Tức, Nô Bộc. Ở Tý Ngọ là nhập miếu, tại trời là sát khí, tại số là hao tinh, vì thế mà hóa khí là Hao. Chủ nhân hung bạo giảo trá, tính gian giảo, khó hòa hợp với người khác, hơi chút là có thể làm tổn thương tới người ta liền. Khó mà thành kẻ lương thiện, hay trợ giúp cho kẻ ác. Ngược đãi và coi lục thân như kẻ thù, đối xử với cốt nhục vô tình vô nghĩa, duy chỉ có những người tuổi Quý tuổi Giáp thì hợp cách chủ hưởng phú quý. Hãm địa mà thêm sát tinh xung phá thì khéo tay nghề nhưng dễ tàn tật, khó giữ được tổ nghiệp, hợp theo tăng đạo. Nữ nhân mà bị xung phá như thế thì dâm đãng vô sỉ. Sao này mà ở cùng với Tử Vi thì khiến cho (Tử Vi) mất đi uy quyền; gặp Thiên Phủ thì trở thành gian trá; hội Tử Tham thì trộm cắp đạo tặc. Cùng Liêm Trinh Hỏa Linh đồng dộ thì nhất quyết sẽ khởi tụng thị phi kiện cáo; cùng Cự Môn đồng độ tắc khẩu thiệt tranh đấu; cùng Hình Kị đồng độ thì cả đời tàn tật. Cùng Vũ Khúc nhập vào Tài cung thì làm đằng Đông cũng hỏng mà làm đằng Tây cũng bại; với Văn tinh thủ Mệnh thì một đời là kẻ sĩ nghèo túng. Gặp chư hung kết bè đảng thì phá bại, ngộ nơi hãm địa thì họa của chúng không hề nhỏ. Duy chỉ có Thiên Lương có thể chế được cái ác của nó, Thiên Lộc có thể giải được cái cuồng của nó. Nếu gặp lưu niên sát tinh giao hội thì sản nghiệp gia đình bị phá hỏng, mất hết. Cùng Văn Khúc nhập vào Thủy vực thì tàn tật, chủ ly hương. Ngộ Văn Xương ở Chấn cung, gặp cát tinh thì có thể được Quý. Nếu mà nữ mệnh gặp phải là kết hôn mà chẳng có mối mai gì sất, phiêu đãng lưu lạc, chôn vùi tiết hạnh. Phàm kẻ có Thân Mệnh cư Tý Ngọ, có Tham Sát củng chiếu thì uy danh chấn động biên thùy. Hoặc cùng Vũ Khúc cư Tị cung có Tham Lang củng cũng được ở nơi đài các. Nhưng cần xem ác tinh như thế nào! Người tuổi Giáp Quý thì nhập cách nhưng mà đến lúc già cũng chẳng toàn mĩ vậy. Tại Thân Mệnh hãm địa thì quên tổ bỏ tông; tại Huynh Đệ thì cốt nhục tham gia thương nghiệp (QNB chú: nguyên văn chữ “Tham thương – 參商” thì chữ “thương” này có nghĩa là buôn bán, thương mại, thương lượng… nhưng tôi cho rằng chữ này có sự sao chép viết sai, nhẽ ra viết chữ “thương – 傷 / 戧”= thương đau, thương tích, xung đột,… thì hợp hơn. Điểm này, độc giả xem thêm ở phần vấn đáp của Cự Môn lại thấy nói “ở huynh đệ cung thì anh em tham gia thương nghiệp”. Bởi suy từ tính lý của Cự Môn thị phi, ám muội, cộng thêm câu phú “Cự Môn đến nhị cung, thì anh em vô tình vô nghĩa” – Chuẩn Thằng phú -, cũng như tính lý của Phá Quân là đối xử bạc bẽo với lục thân, thì biết khi chúng đóng vào cung Huynh đệ sẽ gây ra bất hòa, anh em thương tàn, làm tổn thương nhau. Xin độc giả lưu ý vậy);
tại Phu Thê thì bất chính, chủ nhân nhân trắc trở, tới lui khó toàn; tại Tử Tức là trước thời tổn thất sau thời được thành đạt; tại Tài Bạch như nước sôi dội vào tuyết (ý nói tan hết cả); tại Tật Ách gây ra lưng gù chân khuềnh; tại Thiên Di chủ bôn ba vô lực; tại Nô Bộc thì bị kẻ dưới chê bai báng bổ oán trách rồi bỏ đi; tại Quan Lộc thì chủ thanh bần; tại Điền Trạch mà hãm thì phá đãng cơ nghiệp tổ tông; tại Phúc Đức thì lắm tai nhiều nạn; tại Phụ mẫu thì có hình khắc, có phá tướng.
Hỏi Văn Xương chủ định như thế nào?
Đáp viết: Văn Xương chủ khoa giáp, thủ Thân Mệnh chủ nhân u nhàn nho nhã, khôi ngô thanh tú, thông hiểu và uyên bác về văn chương ký sự, có tài cơ biến lạ thường, một lần thi cử là thành danh liền mà khoác lên mình tấm lụa đào, áo tím (ý nói quan phục cao cấp), được phúc thọ song toàn. Bị tứ sát xung phá vây hãm thì cũng không đến nỗi là kẻ hạ tiện.
Nữ nhân mà gặp, thêm cát tinh tinh đắc địa thì y lộc được sung túc. Tứ sát mà xung phá thì hạ tiện hoặc làm tì thiếp, thích nghi với tăng đạo.
Văn Xương gia thêm Quyền Lộc là dấu hiệu của người bậc thày nhân hậu, ổn trọng.
Ca viết:
Văn Xương chủ khoa giáp
Thìn Tị là vượng địa
Lợi Ngọ, ghét Mão Dậu
Mệnh Hỏa sinh bất lợi
Mi mắt định phân minh
Tướng mạo rất đẹp đẽ
Hỉ người mang mệnh Kim
Phú quý song toàn mỹ
Trước khó sau thành dễ
Gần cuối có thanh danh
Thái Dương Phúc Ấm tụ
Loa truyền đệ nhất danh.
Hỏi Văn Khúc chủ định như thế nào?
Đáp viết: Văn Khúc thuộc Thủy, là sao thứ tư của Bắc Đẩu, chủ khoa giáp và guồng văn học. Tượng của nó thuộc Thủy, cùng Văn Xương hiệp đồng thì số tốt đẹp vô cùng, khi lâm vào Thân Mệnh thì khiến cho thành công khoa bảng. Đào hoa ngao du, vào kẻ làm quan thì không có gì nghi ngại cả. Ở Quan Lộc cung thì gần gũi vua mà chấp chính. Đơn thủ ở Thân Mệnh lại gặp hung tinh thì cũng chẳng có công danh gì mà chỉ làm kẻ biện thuyết mà thôi. Cùng với Liêm Trinh ở 1 chỗ thì tất sẽ làm công sai, quan lại. Thân mà cùng với Thái Âm đồng hành định là cửu lưu thuật sĩ. Ghét gặp Phá Quân sợ lầm vào đất thủy thì dễ sinh ra tai nạn; không ưa gặp Tham Lang vì khiến cho chính sự bị điên đảo. Gặp Thất Sát Hình Kị Tù và chư ác diệu thì không trách được làm kẻ gian trá. Gặp Cự Môn cùng triền độ thì chôn vùi hòa khí. Nữ mệnh không hợp gặp nó vì thủy tính tơ liễu đào hoa. Kị nhập vào thổ cung vì hạn lâm vào đó sẽ vất vả. Nếu mà Lộc Tồn, Hóa Lộc tới trong triền độ thì luận là không thể nào gặp hung được.
Hi Di tiên sinh viết: Văn Khúc thủ Thân Mệnh, cư Tị Dậu Sửu cung là quan cư hầu bá. Vũ Tham tam hợp hoặc đồng viên là tướng tướng chi cách, gặp Văn Xương cũng dĩ nhiên là giống thế. Nếu mà hãm cung Ngọ Tuất, có Cự Môn Kình Đà xung phá thì táng mệnh yểu chiết, vốn đại kinh hiểm. Nếu ở Hợi Mão Mùi là vượng địa, cùng Thiên Lương Thiên Tướng hội họp thì chủ thông minh bác học, sát xung phá thì hợp với tăng đạo. Nếu nữ Mệnh gặp thì thanh tú, thông minh, chủ quý, nhưng nếu hãm địa có sát xung phá thì chủ vừa dâm vừa tiện.
Hỏi lưu niên Xương Khúc chủ định thế nào?
Đáp viết: mệnh phùng lưu niên Xương Khúc, là khoa danh khoa giáp. Đại tiểu nhị hạn mà gặp, thêm tam hợp củng chiếu Thái Dương, lại vừa có lưu niên Lộc; tiểu hạn có Thái Tuế và Khôi Việt, Tả Hữu, Thai Tọa, Nhật Nguyệt, Khoa Quyền Lộc Mã tam phương củng chiếu thì nhất định là đỗ đạt cực cao mà chẳng cần nghi ngại gì. Cũng đúng ngần ấy sao là đại cát ở tam phương thì làm thủ khoa trong năm ấy. Hai sao này ở Tị Dậu là đắc địa, không phú thì sẽ quý, nhưng mà lại thường là không được dài lâu.
Ca viết:
(QNB chú: trong bài ca quyết có một số chỗ khó hiểu nên tôi để nguyên văn phiên âm. Sau này sẽ bàn luận. Độc giả lưu ý).
Nam bắc Xương Khúc tinh
Số trung thôi đệ nhất
Thân Mệnh tối vi giai
Chư cát khủng phi cát
Đắc nhân cư mệnh thượng
Đào hoa lãng tam cấp
Nhập sĩ canh vô hư
Thung dung yếu Phụ Bật
Chích khủng ác sát lâm
Hỏa Linh Dương Đà kích
Nhược hoàn phùng hãm địa,
Miêu nhi bất tú thực
Bất thị công lại bối
Cửu lưu công số thuật
Vô phá tể chức quyền
Nữ nhân đa dâm dật
Nhạc cư Hợi Tý cung
Không Vong quan vô ích.
Hỏi Tả Phụ chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Tả Phụ là sao phụ tá như “cánh tay trái” của Đế tinh, thủ Thân Mệnh ở khắp các cung đều giáng phúc. Chủ nhân hình tướng diện mạo đôn hậu, khẳng khái phong lưu. Nếu tam phương đắc Tử Phủ Lộc Quyền tam hợp xung chiếu thì chủ văn võ đại quý. Hỏa Kị xung phá thì tuy phú quý nhưng không được lâu bền. Theo tăng đạo thì thanh nhàn, cho nên ổn trọng, hiền đức, hiểu biết rộng, ở chỗ vượng địa thì được phong tặng. Hỏa Kị mà xung phá thì đoán là trung cục.
Hỏi Hữu Bật chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Hữu Bật là sao phụ tá như “cánh tay mặt” của Đế tinh, thủ Thân Mệnh thì tinh thông về văn vẻ, hội họa. Có Tử Phủ và các cát tinh đồng viên thì Tài Quan song mỹ, văn võ song toàn. Kình Đà Hỏa Kị xung phá thì đoán là hạ cục. Vào nữ nhân có tính hiền lương, nếu có Tứ Sát xung phá thì cũng không đến nỗi hạ tiện, theo tăng đạo được thanh nhàn.
Ca viết:
Tả Phụ nguyên thuộc Thổ
Hữu Bật gốc Thủy tinh
Vắng Chủ thành vô dụng
Tam hợp cần thấy Vua
Nếu cùng chỗ Tử Vi
Tước lộc không kể xiết
Nếu ở tại Phu Thê
Chủ hai lần kết phối
Nếu cùng sao Liêm Trinh
Cạo đầu vì ác tiện
Phụ Bật là thượng tướng
Phụ tá Tử Vi tinh
Mừng kề bên Nhật Nguyệt
Văn nhân vượt vũ môn
Rảo bước nhàn thăng tiến
Vô tước là vô danh
Bởi Thê cung gặp chúng
Quyết định hai đời vợ
Nếu cùng Hình Tù đóng
Hình thương làm đạo tặc.
Hỏi Thiên Khôi Thiên Việt chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Khôi Việt là sao của ti Khoa bảng, nhập Mệnh tọa quý hướng quý, hoặc đắc Tả Hữu cùng cát tinh hội tụ thì chẳng quý cũng giàu sang, huống hồ hai sao lại còn vừa là thần của thượng giới chủ về hòa hợp, trong trường hợp Khôi lâm Mệnh còn Việt thủ Thân hoặc luân phiên tương thủ. Nếu được thêm Tử Phủ, Nhật Nguyệt, Xương Khúc, Tả Hữu, Quyền Lộc tương ngộ, tuổi trẻ chắc chắn gặp được vợ đẹp. Lúc gặp phải đại nạn thì tất sẽ có quý nhân phù trợ thành tựu, kẻ tiểu nhân không được thế đâu nhé, nhưng đều là không phải gặp hung hiểm. Hạn gặp được thì chủ nữ thêm hỉ tín, sinh con trai thì tuấn nhã, nhập học công danh có thành tựu. Sinh con gái thì tất sẽ có dung mạo đoan trang, xuất chúng siêu quần; nếu sau bốn mươi mà gặp mộ khố thì lại không đoán giống thế được. Theo tăng đạo thì hưởng phúc, cùng với người hòa hợp, không hề hạ tiện. Nữ nhân mà có thêm nhiều cát tinh hội tụ thì tất sẽ là vợ của bực tể tướng, thượng phụ, luận là mệnh phụ phu nhân. Nếu gia thêm ác sát thì cũng được phú quý, nhưng mà không miễn được tâm tình có sự dâm dật.
Ca viết:
Thiên Ất quý nhân chúng tinh khâm (phục)
Mệnh gặp kim đới phúc cao thâm
Danh dự bay cao người ái mộ
Cổ kim uyên bác cứ như thần
Khôi Việt nhị tinh hạn thịnh cường
Người người gặp chúng đắc tiền, lương (thực)
Kẻ quan mà thấy thì phát phúc
Năm ấy nhất định gặp quân vương.
Hỏi Lộc Tồn chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Lộc Tồn là sao thứ ba của Bắc đẩu, là sao của “chân nhân” (QNB chú: là danh xưng cao quý của người chân thực hay vị tu hành đắc đạo), chủ người được quan quý tước lộc, chấp chưởng thọ mạng của con người. Gặp Đế tinh phù tá mà thi hành quyền, với Nhật Nguyệt mà có nó thì được tăng thêm quang huy. Thiên Phủ Vũ Khúc có nó thì thêm chức, Thiên Lương Thiên Đồng gặp thì thêm nhiều tốt lành. Tại khắp các cung thì chỉ có ở Thân Mệnh, Điền Trạch, Tài Bạch là trọng yếu, chủ về giàu có. Cư vào Thiên Di thì đẹp, với Đế tinh thủ Quan Lộc cung thì hợp cho phẩm hàm tước vị của con cháu. Nếu mà độc thủ ở Mệnh không có cát hóa thì chỉ làm kẻ nô tài trông coi kho quỹ cho người ta mà thôi. Lộc Tồn mà gặp cát tinh thì mới phô diễn được cái uy quyền cũng như tác dụng của nó, nếu mà gặp ác bại tinh thì bị thui chột khả năng. Vô cùng sợ lạc hãm chỗ Không Vong vì không thể tác phúc, lại thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì nhờ vào khéo tay nghề mà yên thân. Tước lộc (của Lộc Tồn) phải đang đắc thế thì mới được hưởng, thủ vào Thân Mệnh thì chủ nhân uy tín, chính trực, nhân hậu từ tâm, hiểu biết rộng lớn. Nữ nhân mà đắc thì thanh cao, hiền thục, khéo léo, tài năng, có chí khí như người quân tử. Tử Phủ Liêm cùng hội hợp, có thêm Lộc Tồn là thượng cục. Đại để thì sao này ở khắp các cung đều có thể giáng phúc mà tiêu giải tai nạn.
Ca viết:
Lộc Tồn bắc đẩu tinh
Trong số là thượng cục
Thủ ở nơi Thân mệnh
quý cũng cực giàu
Nó dẫn động cát tinh
Cũng có thể thăng chức
Văn nhân có thanh danh
Võ nhân lộc hậu hĩnh
Thứ dân phát hoạnh tài
Tăng đạo cũng chủ phúc
Quan lại mà gặp được
Bỗng nhiên hưởng thiên lộc.
Lại viết:
Giáp Lộc củng quý hợp Hóa Lộc (đây là giáp và hợp với vị trí của Hóa Lộc)
Lầu vàng lại gặp vàng đầy kho
Không chỉ một phương như chư hầu
Lộc ăn vạn chung chính bởi nó.
Lộc Tồn đối hướng thủ Thiên Di
Tam hợp gặp lợi lộc hèn gì
Có được người người đều kính phục
Tự nhiên tay trắng khởi cơ đồ.
Hỏi Thiên Mã chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Khắp các cung đều có chế hóa, như Thân Mệnh lâm vào vị trí của nó là dịch mã (có sự chuyển động, di chuyển). Mừng được Lộc Tồn, Tử Phủ, Xương Khúc thủ chiếu vì được cát lành. Như đại tiểu hạn mà lâm vào, lại gặp thêm Lộc Tồn, Tử Phủ, Lưu Xương thì tất sẽ có lợi lộc.
Nếu như cùng Lộc Tồn đồng cung gọi là “Lộc Mã giao trì”, lại viết “chiết tiên Mã” (折鞭馬 – ngựa chạy nhanh dường như lúc quất gãy cả roi);
cùng Tử Phủ đồng cung gọi là “phù dư Mã” (扶轝馬 – ngựa kéo xe vàng của vua);
cùng Hình Sát đồng cung gọi là “Phụ thi Mã” (負尸馬 – ngựa chở xác chết);
cùng Hỏa Tinh đồng cung gọi là “chiến Mã” (ngựa chiến);
cùng Nhật, Nguyệt đồng cung gọi là “thư hùng Mã” (雌雄馬 – ngựa sống mái);
gặp Không Vong gọi là “tử Mã” “vong Mã” (ngựa chết toi);
ở chỗ Tuyệt Tử gọi là “tử Mã”;
gặp Đà La gọi là “chiết túc Mã” (折足馬 – ngựa què chân).
Phạm vào những cách như trên đây, thì đều chủ tai nạn bệnh tật, lưu niên mà gặp phải thì cứ theo như thế mà đoán (QNB chú: tuy nói là “những cách trên đây”, nhưng có lẽ nên trừ ra cách “Lộc Mã giao trì” và cách “Phù dư Mã” vì gặp 2 cách ấy mà nói là chủ tai nạn thì khó mà dám đoán theo như vậy. Độc giả lưu ý!).
Hỏi Hóa Lộc chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Lộc là thần của phúc đức. Thủ ở vị trí của Thân Mệnh Quan Lộc mà gặp được Khoa Quyền là tất sẽ làm tới chức quan đại thần. Tiểu hạn mà gặp thì chủ tăng tiến tài lộc, là điềm mừng về việc đỗ đạt, gia nhập vào quan trường. Đại hạn mười năm (mà gặp) thì đoán được cát lợi vui vẻ mà không cần nghi hoặc, nếu ác diệu lâm vào hợp cùng với Kình Đà Hỏa Kị xung chiếu thì cũng không gây tổn hại.
Nữ nhân mà có Hóa Lộc, được cát tinh củng chiếu thì làm mệnh phụ phu nhân, nhị hạn mà gặp thì trong uy phong mà ngoài thì nghiêm cẩn, nếu có sát tinh tấu hợp thì lại thành ra bình thường.
Hỏi Hóa Quyền chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Quyền tinh là thần chấp chưởng việc phán quyết sinh sát. Thủ nơi Thân Mệnh mà gặp Khoa Lộc thì xuất tướng nhập tướng (oai phong lẫm liệt). Nếu Quyền gặp Khoa thì tất đoán định là văn chương quán thế, ai ai cũng khâm phục ngưỡng mộ. Tiểu hạn mà tương phù thì không có gì là không tốt. Đại hạn mười năm tất nhiên cũng được toại chí. Nếu như gặp Kình Đà Hao Sứ Kiếp Không thì nghe lời sàm tấu, theo lời gièm pha mà tự chuốc lấy buồn phiền, gặp phải quan tai khẩu thiệt, bị châm biếm chỉ trích.
Nữ nhân mà có Hóa Quyền thì trong ngoài đều được thỏa chí cân xứng, có thể làm mệnh phụ phu nhân.
Tăng đạo gặp thì có tín hiệu chấp chưởng cả môn phái.
Hỏi Hóa Khoa chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Khoa tinh là thí sinh ứng tuyển ở thượng giới, là sao chủ chấp chưởng văn thơ họa. Thủ ở nơi Thân Mệnh mà gặp Quyền Lộc thì quan quý tới mức làm tể tướng trọng thần. Nếu như gặp ác diệu thì cũng vẫn được là văn chương tú sĩ, có thể làm thày giảng dạy cho những người tài.
Nữ Mệnh có thêm cát tinh củng chiếu thì chủ được phong tặng. Dẫu có tứ sát xung phá thì cũng vẫn được phú quý. Cùng với các văn tinh khoa tinh khác củng chiếu xung, thì cũng luận tương tự như thế.
Hỏi Hóa Kị chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Kị là thần quản nhiều thứ. Thủ ở nơi Thân Mệnh thì một đời không được thuận lợi, tiểu hạn mà gặp thì một năm ấy không được no đủ, đại hạn mười năm mà gặp thì hối hận tiếc nuối. Nhị hạn có Thái Tuế giao lâm thì quyết đoán là long đong vất vả. Văn nhân mà gặp thì không bền, võ nhân mà gặp thì dễ có quan tai khẩu thiệt khó phòng. Dẫu có là kẻ thương nhân, người làm kỹ nghệ thì cùng đều chẳng được lợi gì.
Nếu hội Tử Phủ, Xương, Khúc, Ttả Hữu, Khoa Quyền Lộc, với Kị đồng cung lại vừa có cả tứ sát cùng chiếu thì phát tài như cũng chẳng tốt đẹp, công danh thì lại khó thành tựu. Nếu như chỉ đơn thuần Kị gặp tứ sát, hao, sứ, kiếp không thì chủ bôn ba lưu lạc, có đới tật. Tăng đạo mà gặp thì cũng dễ hoàn tục. Xử sự thì chỉ muốn được nhận mà không muốn chia sẻ.
Hỏi Kình Dương chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Kình Dương thuộc Bắc đẩu. Thủ ở Thân Mệnh thì tính tình thô lỗ, hành vi nóng nảy, cô đơn, coi người thân như là kẻ sơ, phản ơn thành oán. Nhập miếu thì tính cương trực, quả quyết, cơ mưu và dũng mãnh, chủ về quyền quý. Người sinh phương Bắc là phúc, người tuổi Tứ Mộ thì không kị. (Kình Dương) cư ở Mão Dậu thì tác họa, dấy lên tai ương, cực kỳ hình khắc. Người tuổi Giáp và người tuổi Canh tất sẽ có hung họa. Dẫu phú quý cũng không bền và cũng chẳng được trọn vẹn/trọn đời lương thiện. Nếu mà lại là người thuộc giới cửu lưu hay công nghệ thì chăm chỉ và tinh tế. Thêm Hỏa Kị Kiếp Không xung phá thì tàn tật, ly tổ, hình khắc với lục thân.
Nữ nhân có Kình Dương nhập miếu mà gặp cát tinh thì là thượng cục, gặp nhiều Sát Hao xung phá thì chủ hình khắc là hạ cục.
Hỏi Đà La chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Đà La thuộc Bắc đẩu. Thủ ở Thân Mệnh thì tâm tưởng và hành vi đều bất chính, thường xuyên khóc thầm, tính tình cương mãnh, vào việc thì tiến thoái bất nhất. Chợt thành chợt phá, phiêu đãng bất định. (Đà La) Cùng với Tham Lang đồng độ thì vì tửu sắc mà mang phải bệnh tật (QNB chú: nguyên văn “成癆-thành lao”, chữ “lao” này có nghĩa là “bệnh lao”), cùng với Hỏa Linh cùng một chỗ thì bị ghẻ lở, bị bệnh ôn dịch. Cư vào cung Tật Ách là có ám tật triền miên. Những người tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi được phúc, tại nơi miếu địa thì luận là được cả tiền tài lẫn quan vị, đối với văn nhân thì không được lâu bền nhưng với võ nhân thì một bước lên mây. Nếu mà cư ở chỗ hãm địa thêm sát tinh thì hình khắc và chiêu chuốc hung họa, mang thêm họ khác thì được thọ lâu hơn (QNB chú: nguyên văn là “二姓延生 – nhị tính diên sinh”, nghĩa là có 2 họ, là làm con nuôi nhà khác thì sinh mệnh được kéo dài), nữ nhân gặp phải thì hình khắc hạ tiện.
Kình Đà nhị tinh tổng luận
Ngọc Thiềm tiên sinh viết: Kình Dương, Đà là hai sao thuộc Hỏa – Kim, là phù tinh của Bắc Đẩu, tại đẩu thuộc ti Tấu, tại số thì chủ hung ách. Kình Dương hóa khí là Hình, còn Đà La hóa khí là Kị. E ngại phải lâm vào ba cung là Huynh Đệ, Điền Trạch và Phụ Mẫu. Kị tam hợp lâm vào Thân Mệnh, hội hợp Xương Khúc Tả Hữu thì có nốt ruồi chỗ kín và cả chỗ có thể thấy được. Thấy Nhật Nguyệt thì nữ khắc chồng, nam khắc vợ, là hung thần của các cung. Kị đồng cung với Nhật Nguyệt vì chủ tổn thương người thân thích và bị tổn hại cho mắt; gặp Hình tinh thì đào hoa phong lưu mà rước lấy họa; kị Tham Lang kè bên bởi vì do tửu sắc trăng hoa mà phải mất mạng; Hình vớii ám tinh mà đồng hành thi chiêu chuốc ám tật với hỏng mắt; ghét cùng với sát ám tinh đồng độ vì dễ chiêu chuốc lấy sự lăng nhục cũng như sinh ra có ám tật; cùng Hỏa Linh hội là hung ác, chỉ thích hợp với tăng đạo; Quyền Hình hội hợp sát tinh thì không tránh được quan tai khẩu thiệt; Tham Hao lưu niên mà gặp thì trên mặt có sẹo. Nhị hạn gặp phải chúng thì tai hại thi thoảng lại xuất hiện.
Ca viết:
Hình với Ám đồng hành,
Ám tật khắc lục thân
Hỏa Linh gặp hung hiểm
Chỉ hợp đạo với tăng
Quyền Hình Tù hội sát
Tật bệnh tai ách xâm
Lưu niên gặp Tham Hao
Trên mặt thời lắm sẹo
Hạn hành mà gặp chúng
Họa máu me chợt sinh
Kình Đà sát yểu thọ
Người gặp là quét sạch
Quân tử phòng kinh hoàng
Tiểu nhân bị tra tấn
Gặp Hao đoán ăn mày
Dễ thành người cõi âm
Nhị hạn nếu xâm phạm
Thi thoảng họa lại sinh.
Hỏi Hỏa Tinh chủ định như thế nào?
Đáp viết: Hỏa tinh là Nam đẩu phù tinh vậy.
Hi Di tiên sinh ca viết:
Gặp Hỏa Tinh đại sát tướng
Nam đẩu hiệu sát thần
Nếu chủ Thân Mệnh vị
Các cung chẳng thể lâm
Tính khí cũng trầm độc
Cương cường xuất chúng nhân
Lông tóc nhiều loại lạ
Răng môi có tổn thương
Thêm Kình Đà cùng hội
Thơ ấu tất tai truân
Rời nhà người ngoài dưỡng
Mang hai họ thì thọ
Người Đông Nam thì lợi
Bất lợi Tây Bắc nhân
Nếu cùng Tham Lang hội
Miếu vượng quý vô ngần
Phong hầu cư thượng tướng
Nổi danh khắp biên đình
Tam phương vô sát phá
Trung niên được hưng thịnh
Tăng đạo nhiều phiêu lãng
Chẳng thủ quy giới luật
Vượng, nữ nhân thanh khiết
Hãm, tất chủ tà dâm
Hình phu và khắc tử
Hạ tiện cực khổ thân.
Hỏi Linh Tinh chủ định như thế nào?
Đáp viết: Linh Tinh là Nam đẩu trợ tinh vậy.
Hi Di tiên sinh ca viết:
Đại sát Linh Tinh tướng
Nam đẩu là tòng thần
Gặp ở nơi Thân Mệnh
Tính cách cũng trầm ngâm
Hình mạo cũng quái lạ
Uy thế có thanh danh
Nếu cùng Tham lang hội
Trỏ về hướng biên đình
Miếu địa tài quan quý
Hãm địa chủ cô bần
Kình Đà mà tấu hợp
Hình dáng thô xấu ghê
Cô đơn lại ly tổ
Tàn hại đới tật nhân
Tăng đạo nhiều phiêu lãng
Đoán hoàn tục chớ nghi
Nữ nhân vô cát diệu
Hình khắc mất lục thân
Chung thân chẳng trinh khiết
Vừa yểu vừa nghèo khốn
Sao này đại sát tướng
Ác của nó khó ngăn
Một đời có hung họa
Muốn giàu rất khó khăn
Thất sát chủ trận vong
Phá Quân gia cảnh bại
Liêm Trinh Kình Hình hội
Kiếp Không chủ đao binh
Hoặc hội Tham Lang tú
Quan lộc cũng chẳng yên
Nếu mà cư miếu vượng
Phú quý khó nói hết.
Kình Đà Linh Hỏa – tổng luận 4 sao
Ngọc Thiềm tiên sinh viết:
Hỏa Linh, Đà La kim
Kình Dương, Hình Kị ấy
Là sao chủ tảo phạt
Lại là đoản thọ sát
Khiến quân tử mất quyền
Tiểu nhân phạm hình pháp
Cô độc khắc lục thân
Họa tai không ngưng nghỉ
Hại chân, lưng, môi, răng
Trục trặc lắm lao lực
Phá tướng lại lao tâm
Ăn mày nơi mương rãnh
Cùng Vũ Khúc Tham Lang
Một đời chiêu hung ác
Tật ách mà gặp phải
Cả đời chẳng được khỏe
Chỉ hợp theo tăng đạo
An vui hưởng thóc vàng.
Hỏi Thiên Không Địa Kiếp chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh viết: Hai sao ấy thủ Thân Mệnh thì gặp cát sẽ tốt lành mà gặp hung sẽ hung hiểm (QNB chú: dịch nguyên văn “二星守身命, 遇吉則吉, 遇凶則凶. – Nhị tinh thủ Thân Mệnh, ngộ cát tắc cát, ngộ hung tắc hung”. Độc giả lưu ý vậy). Nếu như Tứ Sát xung chiếu thì nhẹ là kẻ hạ tiện, nặng thì là mệnh số của bọn súc sinh. vào số tăng đạo cũng bất chính, vào nữ mệnh thì làm tì thiếp, hình khắc cô độc. Đại để thì hai sao này đừng nên gặp thì hơn, nhất định chủ phá tài, nhị hạn mà gặp thì tất sẽ hung họa.
Ca viết:
Kiếp Không hại lắm khiến người buồn
Anh hùng gặp chúng cũng sợ luôn
Chỉ hợp theo tăng và tu đạo
Vàng ngọc chất chồng cũng bỏ luôn.
Hỏi Thiên Thương, Thiên Sứ chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Thiên Thương là thần của hư hao ở trên trời, Thiên Sứ là thần sứ giả của nhà trời. Thái tuế nhị hạn mà gặp thì chớ hỏi tại sao lại vào địa phủ (toi mạng). Chỉ cần nhiều cát tinh tụ hợp thì còn phúc vì họa của chúng cũng nhẹ thôi, nếu như mà không có cát tinh lại gặp phải Cự Môn, Kình Đà, Linh Hỏa, Hóa Kị, Thiên Cơ, thì năm đó tất sẽ chủ bị khẩu thiệt quan tai, tang vong, phá bại.
Hạn tới đại hao hiệu Thiên Thương
Khổng Tử thôn Trần, hết sạch lương
Thiên Sứ hạn lâm người thêm ghét
Thạch Sùng giàu thế vẫn cùng đường.
Hỏi Thiên Hình chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Thiên Hình thủ Mệnh Thân thì không là tăng đạo thì nhất định sẽ cô đơn hình khắc, không nghèo thì cũng yểu tử. Phụ Mẫu Huynh Đệ đều không được toàn vẹn, nhị hạn mà gặp thì chủ xuất gia, dính vào pháp luật, lao ngục, mất tiền. Khi nhập miếu thì lại tốt lành.
Ca viết:
Thiên Hình chưa chắc phải hung tinh
Nhập miếu gọi là Thiên Hỉ Thần
Xương Khúc cát tinh cùng tấu hợp
Định là hiến kế tới triều đình
Hình cư Dần vị và Dậu Tuất
Lâm vào cung Mão cũng quang minh
Gặp được văn tinh thành đại nghiệp
Trấn thủ biên cương trăm vạn binh
Thứ ba, không con bởi Thiên Hình
Là tăng là đạo thân cô linh
Thiên Khốc nhị tinh mà cùng đến
Cả đời khó thoát tật thân mình.
Hỏi Thiên Diêu chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Thiên Diêu thủ Thân Mệnh thì tâm tính âm độc, đa nghi lo sợ, nhan sắc đẹp, phong lưu lắm tì thiếp, chủ dâm dật. Nhập miếu vượng thì chủ phú quý lại có lắm người hầu hạ, cư ở Hợi có học thức. Hội ác tinh thì phá gia bại sản, vì sắc dục mà phạm vào hình pháp. Lục hợp trùng phùng thì thiếu niên yểu chiết. Nếu lâm hạn có Thiên Diêu thì vẫy người gọi vào thành hôn mà chẳng có mai mối gì cả (QNB chú: ý nói dâm tính mà chẳng tuân theo gia phép lễ nghĩa gì cả). Nếu có Tử Vi và cát tinh thêm vào nữa thì cương nhu tương hợp nên chủ “phong tao” (thường quấy nhiễu, phóng túng hoặc bị bệnh phong hàn quấy nhiễu), thêm Hồng Loan thì càng dâm, thêm Kình Hình thì chủ yểu vong.
Ca viết:
Thiên Diêu ở Tuất Mão Dậu cung
Thêm nhập song ngư một sao mong
(QNB chú: nguyên văn 更入雙魚一併求 – cánh nhập song ngư nhất tinh cầu. Không rõ chữ “song ngư” ở đây muốn ám chỉ cái gì? Độc giả lưu ý vậy).
Phúc hậu sinh thành mê tửu sắc
Vô tai vô họa trải Xuân Thu
Thiên Diêu ở với bại tinh cùng
Hiệu viết người ta tính kiêu căng
Bình sinh cay đắng một đời vậy
Chẳng được an vui với gió trăng
Người ta đôi lúc gặp Thiên Diêu
Luyến sắc tham hoa tính hung liều
Nếu mà sao ấy sinh vượng địa
Dù đăng cực phẩm cũng phong tao.
Hỏi Thiên Khốc, Thiên Hư chủ định như thế nào?
Hi Di tiên sinh đáp viết: Khốc Hư là ác diệu, lâm vào Thân Mệnh là rất bất thường, lâm vào trong cung Phụ Mẫu thì phá đãng bán cả vườn tược cửa nhà. Nếu ở Thân Mệnh hãm thì khổ cùng cực, cô độc, lại bị hình thương. Lục thân đều không được đầy đủ, lúc nào cũng phiền não. Mưu sự chẳng thành tựu, tâm sự luôn dồn nén, gấp gáp. Ở Sửu Mão Thân cung thì tốt lành, gặp Lộc thì được hiển danh.
Nhị hạn mà gặp Khốc Hư là đau buồn khóc đứt ruột.
QNB chú: Kết thúc mục “Chư tinh vấn đáp” trong TVĐS Toàn Thư, không rõ là do thất lạc mà bản này không có các sao khác nữa hay là chỉ vấn đáp các sao quan trọng để phán đoán được đại cục lá số chăng???? QNB có tham khảo qua bản dịch của cụ Vũ Tài Lục năm xưa thì cũng thấy chỉ có ngần ấy sao mà thôi, các sao khác là do cụ Vũ tham khảo và biên thêm vào.
Tiếp theo là quay lại với Phú, có chú giải, bài “Cốt Tủy Phú – chú giải” và “Tăng bổ Thái Vi Phú – chú giải”. Xem cách bố cục của cuốn sách thì cũng mường tượng ra được cảnh (đây chỉ là suy đoán của cá nhân QNB) khi biên soạn cuốn TVDSTT này thì ông La Hồng Tiên cũng chưa hẳn là thông thuộc hết các cách cục trong các câu phú của Thái Vi Phú nên sau khi vấn đáp chư tinh xong mới thêm vào phần chú giải cho các câu phú của bài ấy.
9. Đẩu Số cốt tủy phú, chú giải
Thái Cực tinh diệu là chủ của chư tinh liệt tú, vận hạn ở nơi thiên môn cũng chính là căn nguyên của việc phù Thân trợ Mệnh (trong số mệnh của con người), ở tại trời thì chuyển vần vô thường nhưng ở người thì Mệnh có cách cụ rõ ràng.
Trước tiên phải minh định được cách cục, thứ đến mới xem xét tới các sao. Dẫu cho cùng năm cùng tháng cùng ngày cùng giờ sinh, thì vẫn có sự khác nhau về bần tiện phú quý thọ yểu.
Có thể tại ác hạn mà lại tích lũy được bạc vàng trăm vạn. Có thể tại nơi vượng cung mà vẫn gặp phải khốn khổ năm này qua năm khác. Họa phúc không thể theo một đường lối duy nhất mà đoán, cát hung cũng không thể cứ theo một định lệ mà đoán được đâu.
Yếu tri nhất thế chi vinh khô,
định khán ngũ hành chi cung vị.
Lập mệnh khả tri quý tiện,
an thân tiện hiểu căn cơ.
(Nên biết rằng tươi tốt hay khô héo của một đời được định bởi việc xem ngũ hành cung vị. Chỗ lập Mệnh có thể thấy được sang quý hay tiện-hèn kém, nơi an Thân có thể hiểu được căn cơ của bản thân đương số.
Một đời vinh nhục bại thành
Cần xem tường tận ngũ hành của cung
Lập Mệnh quý tiện định chung
An Thân biết có vẫy vùng được chăng).
Người phú quý thì vinh vậy, kẻ bần tiện thì nhục vậy, xem trong số mệnh của con người mà biết vậy. Chủ tinh cát, phụ tá tinh cát, vận hạn cũng cát thì tất sẽ được một đời an nhiên tự tại. Vận hạn hung mà lưu niên gặp phải Sát Kiếp thì nhất định là gặp tai họa, hối hận… mà nói. Ngũ hành tức là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy vậy. Như Dần-Thân-Tị-Hợi thì là tứ Sinh, Tý-Ngọ-Mão-Dậu là tứ Bại, Thìn-Tuất-Sửu-Mùi thì là tứ Mộ, nếu tứ Sinh mà Lâm Quan Đế Vượng thì là phú quý, gặp Suy Bại Tử Mộ Tuyệt thì là bần tiện, Mộ khố Thai Dưỡng thì là trung dung bình thường. Lập Mệnh tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì giàu còn ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì nghèo, an Thân tại cung có ngũ hành Sinh Vượng thì quý còn ở cung có ngũ hành Tử Tuyệt thì tiện, tới đây thì cũng cứ theo như lý luận ở trên mà nói (tức là, cứ phỏng theo đó mà suy ra, diễn tiếp ra…).
*
Đệ nhất tiên khán phúc đức, tái tam tế khảo thiên di,
phân đối cung chi thể dụng, định tam hợp chi nguyên lưu.
Mệnh vô chính diệu, yểu chiết cô bần.
Cát hữu hung tinh, mỹ ngọc hà điểm.
Kí đắc căn nguyên kiên cố, tu tri hợp cục tương sinh,
kiên cố tắc phú quý duyên thọ, tương sinh tắc tài quan chiêu trứ.
(Thứ nhất khán Phúc Đức, rồi khảo cứu kỹ Thiên Di, phân ra Thể Dụng của đối cung, xác định căn nguyên lưu chuyển của tam hợp. Mệnh vô chính diệu, chẳng nghèo khổ hoặc cô đơn thì chết yểu. Cát tinh mà có kèm hung tinh thì coi như là ngọc đẹp mà có tì vết. Phàm đã được căn nguyên vững chắc, cần hợp Cục tương sinh, vững chắc thì phú quý diên thọ, tương sinh thì tài quan hiển nhiên rõ ràng).
*
Mệnh hảo Thân hảo Hạn hảo đáo lão vinh xương,
Mệnh suy Thân suy Hạn suy chung thân khất cái.
(Mệnh tốt, Thân tốt, Hạn tốt thì tới già vẫn được vinh quang hưng thịnh
Mệnh suy, Thân suy, Hạn suy thì cả đời chỉ có đi ăn mày).
Giả dụ như, Thân Mệnh tọa ở nơi Trường Sinh Đế Vượng, bản cung lại đắc cát tinh miếu vượng, cùng với việc gặp đại tiểu hạn tương sinh tốt lành, gặp cát tinh nữa thì cả đời chẳng có mưu cầu gì là không được toại ý cả.
Giả như, Thân Mệnh cư ở chỗ Tử Tuyệt, bản cung không thấy cát hóa, hội thêm Kình Đà, giáp Linh Hỏa Không Kiếp các loại ác diệu, mà vận hạn lại không có cát tinh tiếp ứng, thì nhất định đó là số chủ bần tiện vậy.
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri,
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
(cách “giáp Quý, giáp Lộc” này trên đời ít người gặp được,
Cách “giáp Quyền, giáp Khoa” thì ở đời cũng hiếm như thế.)
Giả như, người sinh năm Bính Đinh Nhâm Quý, an Mệnh tại Thìn Tuất, là giáp với Khôi Việt, lại có thêm cả cách giáp cung an Thân an Mệnh gặp Tử Vi Thiên Phủ Nhật Nguyệt Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc thì là giáp Quý, tất sẽ được phú quý vậy. Như người tuổi Giáp, với Thân Mệnh ở Sửu Mão và Dần có Lộc ở trong đó, gọi là “sinh thành chi Lộc”, rất là thượng cách. Ngoài ra giả sử như Giáp Dần, Ất Mão, Canh Thân, Tân Dậu 4 vị đó đều cùng cách ấy.
Như người sinh năm Giáp mà Mệnh an tại Tý có Liêm Trinh hóa Lộc cư Hợi, Phá Quân hóa Quyền cư Sửu, chính là Quyền Lộc giáp Mệnh, định là chủ phú quý, ngoài ra cũng cứ phỏng theo đó mà tính.
*
Giáp Nhật giáp Nguyệt thùy năng ngộ,
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề.
(cách “giáp Nhật giáp Nguyệt” thì người ta thường gặp,
cách “giáp Xương giáp Khúc” là chủ về quý).
Giả như Thái Dương, Thái Âm tại Mệnh Thân mà 2 cung trước sau giáp Mệnh, không gặp phải Không Kiếp Kình Linh, tất sẽ quý vậy.
Như Xương Khúc giáp Mệnh thì cũng quý như vậy.
*
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện,
Giáp Dương giáp Đà vi khất cái.
(cách “giáp Không giáp Kiếp” là chủ nghèo hèn,
cách “giáp Kình giáp Đà” là số ăn mày).
Giả như Mệnh có Hóa Kị gặp Thiên Không, Địa Kiếp, Kình Đà các sát tinh giáp Thân Mệnh này, cùng Liêm Phá Vũ các sao gặp chúng thì định là chủ cô đơn, nghèo hèn, nếu chẳng nghèo thì yểu, phê là hạ cách.
Lại như Mệnh có Hóa Kị, đồng thời Kình Đà Hỏa Linh đến giáp 2 bên, cũng phê là hạ cách, có thể Lộc tại chỗ Sinh Vượng thì tuy là giáp Kình Đà nhưng không coi là hạ cách.
Lại hoặc như Kình Đà Không Kiếp không cùng tới giáp 2 bên, mà ở tam phương gặp được Quyền Lộc thì cũng không luận là giáp bại được, thế nhưng vận hạn mà gặp sát tinh thì có tai họa liền.
*
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân,
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách.
(Liêm Trinh Thất Sát khi gặp phản cách là trở thành người giàu có
Thiên Lương Thái Âm mà phản cách thì lại thành ra khách phiêu bồng).
Liêm Trinh thuộc Hỏa, Thất Sát thuộc Kim, là Hỏa chế Kim thành quyền, như Liêm Trinh cư Mùi Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được là kỳ cách, phản chuyển thành giàu có, hoặc nếu hãm địa Hóa Kị thì là hạ cách.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này rõ là sai toét, làm gì có chuyện trong cùng lá số mà “Liêm cư Mùi, Sát cư Ngọ, Thân Mệnh gặp được” ở chỗ 2 cung cạnh nhau cho được!!! Theo thiển ý của tôi thì để được gọi là “phản vi kỳ cách” thì Liêm Sát đồng cung tuổi gặp được cát hóa, xa lánh sát hung tinh, ví dụ tuổi Giáp có Liêm hóa Lộc thủ Mệnh còn Phá hóa Quyền đóng ở cung Quan là hợp cách. Hoặc là một số trường hợp khác,… Độc giả lưu ý vậy).
Thái Âm mà cư Mão Thìn Tị Ngọ đều là hãm địa, như tại Hợi Tị nhị cung gặp Thiên Lương tọa ở Thân Mệnh thì định là chủ cô đơn nghèo túng, bằng không sẽ phải tha hương phiêu đãng, là kẻ đam mê tửu sắc mà thôi, lại nói Thiên Lương tuy không hãm nhưng cũng không thể khiến cho thành người đôn hậu được.
(QNB chú: phần sách chú giải cho câu này cũng nhập nhằng luôn!!! Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu rằng Mệnh có Thái Âm hãm, Thân cư Quan có Thiên Lương hãm hoặc ngược lại Mệnh có Thiên Lương hãm, Thân cư Tài có Thái Âm hãm là được. Độc giả lưu ý vậy).
*
Tiền bần hậu phú tu hoàn mệnh trị Vũ Tham,
Tiên phú hậu bần chích vi vận phùng Kiếp Sát.
(Trước nghèo sau giàu bù lại là bởi Mệnh gặp Vũ Tham
Trước giàu sau nghèo chỉ vì vận hạn gặp Kiếp Sát).
Giả như, Mệnh lập tại Sửu Mùi có Vũ Tham đồng cung, cái Kim của Vũ Khúc thường khắc chế Mộc của Tham lang thì Mộc gặp chế hóa thành hữu dụng, vốn trước thì tuy nghèo mà sau này mới giàu, lại vừa được tam phương có Xương Khúc Tả Hữu các cát tinh củng chiếu thì chủ quý, hạn gặp Khoa Quyền Lộc tất sẽ quý hiển đấy mà.
Như Thân Mệnh cung có một, hai chính tinh, phía ngoài cũng gặp cát tinh, hạn trung niên đi vào Tuyệt địa, đồng thời gặp Kiếp Không Hao Sát các hung tinh, thì sao thủ Thân Mệnh vô lực, đó là nguyên do mà sau này nghèo vậy.
*
Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ Tài Quan chi vị,
Sinh lai bần tiện Kiếp Không lâm Tài Phúc chi hương.
(Ra đời được vinh hoa đó là bởi có Quyền Lộc đóng ở các cung Tài Bạch, Quan Lộc,
Cuộc đời nghèo hèn ấy là do Kiếp Không lâm vào các cung Tài Bạch và Phúc Đức).
Quyền Lộc thủ ở Tài Bạch và Phúc Đức nhập miếu có nhiều cát tinh thì định là chủ vinh hoa, Thân Mệnh gặp được cũng đương nhiên như vậy.
Kiếp Không tại hai cung Tài Bạch Phúc Đức thì chủ nhân nghèo hèn, Thân Mệnh mà gặp thì cũng đươn nhiên như vậy.
(QNB chú: không hiểu sao sách chú giải cho câu này lại vơ quàng việc Thân Mệnh mà gặp trong các trường hợp trên. Theo tôi thì cứ như sách TVĐS Tân Biên của cụ Thái Thứ Lang mà nói “Quyền đóng vào cung Quan, Lộc đóng vào cung Tài” ấy là đắc vị, là được việc thì dĩ nhiên là vào đời sẽ được hưởng vinh hoa. Hay như “Không đóng vào cung Tài, Kiếp lâm vào cung Phúc” ấy chính là phá cách, là hạ cục, như thế thì có thể phê số là nghèo hèn chứ có gì đâu).
Văn Khúc Vũ Khúc vi nhân đa học đa năng,
Tả Phụ Hữu Bật bản tính khắc khoan khắc hậu.
(Văn Khúc Vũ Khúc là người học nhiều và có nhiều năng lực,
Tả Phụ Hữu Bật thì bản tính khoan thai, nhân hậu).
Giả như, Thìn Tuất Tị Hợi Mão Dậu mà an Mệnh gặp Văn Vũ Khúc hai sao thì đúng là vậy, có Xương Khúc tọa Mệnh ở Mùi mà thấy Kình Đà các sát tinh thì lại dễ bị tai ương, bởi thế phép xem số cần trọng yếu sự linh hoạt.
Như Tả Hữu nhị tinh mà tọa Mệnh, không cần câu nệ nhiều sao hay ít sao cũng đều chủ người có tính tình khoan hậu.
*
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi y lộc chi thần,
Vi sĩ vi quan định chủ hanh thông chi triệu.
(Thiên Phủ và Thiên Tướng là thần của tước lộc,
Là kẻ sĩ là kẻ quan đều định chủ điềm được hanh thông).
Giả như, an Mệnh tại Sửu, ở Tị Dậu cung có Phủ Tướng tới chầu, hoặc ở Mùi cung an Mệnh mà ở Hợi Mão có Phủ Tướng tới chầu cũng vậy, người tuổi Giáp mà không có sát tinh thì cứ y như thế mà đoán, nếu như thêm sát thì không phải vậy.
*
Miêu nhi bất tú khoa danh hãm ư hung hương,
Phát bất chủ tài lộc chủ triền ư nhược địa.
(Mầm non nhú lên mà chẳng phát triển được, là vì Khoa bị hãm ở nơi hung hiểm,
Phát mà lại không chủ tiền tài, ấy là do Lộc đi vào triền độ của chỗ nhược địa).
Giả như Khoa lâm vào trong chỗ có Không Kiếp Kình Đà thì vậy, lại hoặc là Thái Dương ở Tuất, hay Thái Âm ở Mão thì kể cả có cát hóa Khoa Quyền Lộc thì cũng không là đẹp được.
Giả như, Hóa Lộc hãm nơi Không Kiếp thì vậy, lại hoặc là ở Tý Ngọ Thân Dậu cung tuy Hóa Quyền Lộc thì cũng vô dụng, chủ cô đơn nghèo túng. (QNB chú: dịch nguyên văn, không biết sách có mất chữ gì không mà câu này không thấy nói sao gì hóa Quyền hóa Lộc. Độc giả lưu ý vậy).
*
Thất Sát triều Đẩu tước lộc vinh xương,
Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu.
(Thất Sát chầu Đẩu thì quan tước lợi lộc được tốt tươi hưng thịnh,
Tử Phủ đồng cung thì cả đời được hưởng phúc dày).
Giả như, an mệnh tại Dần Thân Tý Ngọ có Thất Sát thì gọi là như vậy (tức, “Thất Sát triều đẩu”), cũng cần Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc tọa chiếu củng hợp thì mới theo y như thế mà đoán, có thể gặp hạn tốt đẹp thì cực hay, nếu như thêm sát tinh thì không đoán thế được.
Giả như, hai cung Dần Thân an Mệnh gặp Tử Phủ đồng cung, tam phương có Tả Hữu Khôi Việt củng chiếu thì tất sẽ chủ phú quý, cả đời được hưởng phúc dày, người tuổi Giáp hóa cát thì cực kỳ đẹp luôn.
*
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu vị chí tam công,
Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim y tử.
(Tử Vi cư Ngọ mà không có sát tinh tụ tập vây chiếu thì tước vị cỡ Tam Công,
Thiên Phủ lâm vào cung Tuất có các sao phù trợ thì mang đai vàng áo tía – ý nói quan phục cao cấp)
Giả như, người sinh năm Giáp Đinh Kỷ mà mệnh an tại Ngọ được như vậy (Tử Vi vô sát tấu) là nhập cách, chủ đại quý, ngoài ra thì cũng giàu đủ hoặc là tiểu quý.
Giả như, người sinh năm Giáp Kỷ mà an Mệnh ở cung Tuất được như thế (Phủ có sao phù trợ) thì cứ y vậy mà đoán, thêm sát tinh thì không đoán thế nữa, trọng yếu là có Khôi Việt Tả Hữu Lộc Quyền thì chủ đại phú đại quý, nếu như không có các cát tinh ấy thì cũng bình thường thôi.
*
Khoa Quyền Lộc củng danh dự chiêu chương,
Vũ Khúc miếu viên uy danh hách dịch.
(Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì rõ ràng có tên tuổi và vinh dự,
Vũ Khúc nhập miếu thì uy danh cũng lẫy lừng, long trọng).
Chúng là Tam Hóa cát tinh, nếu như Thân Mệnh tọa thủ một Hóa, Tài Bạch và Quan Lộc có 2 hóa đến hợp chiếu, đích thị là tam hợp thủ chiếu, được gọi là “Khoa Quyền Lộc củng” vậy, thêm cát tinh nữa thì tước vị cỡ Tam Công.
Giả như, an mệnh ở hai cung Thìn Tuất gặp được Vũ Khúc nhập miếu thì là thượng cách, ở Sửu Mùi an Mệnh thì chỉ là thứ cách, cần phải thấy Tả Hữu Xương Khúc và các cát tinh thì cứ y như thế mà đoán.
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai,
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá.
(có cách “Khoa minh Lộc ám” thì tước vị cỡ Tam Thai – Tam Thái, Tam Công,
có cách “Nhật Nguyệt đồng lâm” thì làm quan được phong Hầu, phong Bá).
Giả như, người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại Hợi, gặp Hóa Khoa thủ mệnh, lại có Thiên Lộc cư ở cung Dần, thì Hợi với Dần là nhị hợp, cho nên viết là “Khoa minh Lộc ám”.
Giả như, Mệnh an tại cung Sửu, trong khi ở Mùi lại có Nhật Nguyệt đồng cung xung chiếu, hoặc Mệnh an tại Mùi còn ở Sửu lại có Nhật Nguyệt đồng cung thì là cách ấy vậy (Nhật Nguyệt đồng lâm), phép bí truyền nói “Nhật Nguyệt đồng lâm luận đối cung”, người tuổi Bính tuổi Tân gặp được hưởng phúc hưng thịnh.
*
Cự Cơ đồng cung công khanh chi vị,
Tham Linh tịnh thủ tướng tướng chi danh.
(Cự Cơ đồng cung thì có tước vị cỡ Công hầu khanh tướng
Tham Linh tịnh thủ thì được nổi danh là tướng tài).
Giả như, người sinh năm Tân Ất mà Mệnh an tại Mão cung, có Cự Cơ thủ mệnh lại gặp Tả Hữu Xương Khúc thì là thượng cách, như người tuổi Bính thì là thứ cách, người tuổi Đinh thì cũng chủ bình thường, ngoài ra cung phận mà không ở đó (Mão) thì không luận như vậy.
Như an Mệnh tại các cung Thìn Tuất Sửu Mùi Tý mà gặp Tham Linh, thì là nhập miếu nên cứ theo y như vậy mà đoán, nếu như gia cát tinh thì duy chỉ có tọa thủ ở hai cung Tý Thìn thì rất đẹp, người tuổi Mậu Kỷ là hợp cách.
*
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương,
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ.
(Có Khôi Việt thì là người có tài văn chương cái thế,
Có Lộc Mã thì cũng đỗ đạt thủ khoa khiến người ta nể phục).
Giả như, Thân Mệnh tọa chỗ Thiên Khôi và đối cung lại có Thiên Việt, hoặc ngược lại Thân Mệnh tọa Thiên Việt còn đối cung có Thiên Khôi, đó chính là “tọa Quý hướng Quý”, hội thêm cát tinh, hóa tinh, thì quý là tất nhiên vậy.
Giả như, an Mệnh tại các cung Dần Thân Tị Hợi gặp Thiên Lộc, Thiên Mã tọa thủ. Mệnh cung có thêm tam hợp cát tinh thủ chiếu thì cứ y như thế mà đoán. Nếu có thêm sát tinh thì không đoán như vậy.
*
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh tôn cư bát tọa,
Tham Lang Hỏa Tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang.
(Tả Phụ Văn Xương hội với các cát tinh thì chỗ ngồi tôn quý, quan cao cấp
Tham Lang Hỏa Tinh cùng cư nơi miếu vượng thì uy danh chấn động các nước láng giềng).
Giả như, hai sao ấy (Tả Phụ Văn Xương) mà tọa thủ ở nơi Thân Mệnh, thêm ở tam phương có cát tinh củng chiếu thì cứ y theo đó mà đoán. Nếu thêm sát tinh, Không Kiếp, thì không hợp với cách ấy.
Giả như, an Mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, gặp được chúng (Tham Hỏa) ở đó là thượng cách, tam phương có cát tinh củng chiếu thì rất đẹp. Nếu như ở Mão an Mệnh thì là thứ cách. Nếu như có Kình Đà Không Kiếp thì không phải cách đó.
*
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại,
Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung.
(Cự Nhật đồng cung thì ba đời được gia phong quan chức
Tử Phủ chầu mệnh viên thì được hưởng lộc ăn tới hàng vạn chung – bổng lộc hậu hĩnh).
Dần cung an Mệnh mà có Cự Nhật, không thấy Kiếp Không và Tứ Sát thì là thượng cách, ở cung Thân (khỉ) là thứ cách. Ở Tị Hợi thì không phải là đẹp, như Tị cung có Nhật thủ Mệnh viên, ở Hợi có Cự thì còn coi là thượng cách, như Tị mà có Cự thủ Mệnh và Hợi có Nhật thì đúng là không đẹp, hạ cách.
Cung Thân (khỉ) có Nhật thủ mệnh, ở Dần có Cự đến chầu cũng là thượng cách. Dần có Nhật thủ Mệnh, ở Thân (khỉ) có Cự đến chầu thì là người bình thường (QNB chú: vế này sách chú giải thật là hoang đường !!! Nếu trong 1 lá số thì không bao giờ có các trường hợp Mệnh có Nhật ở Dần, mà Di có Cự ở cung an Thân, và ngược lại được. Theo thiển ý của tôi thì nên hiểu trường hợp này là Mệnh vô chính diệu ở cung Thân (khỉ) và cung Dần an Thân cư Di có Cự Nhật chầu Mệnh, người tuổi Đinh Tân có Khoa Quyền Lộc củng mới có thể coi là thượng cách. Số của ông Vương Hàn – tự là Tử Vũ có cách này. Độc giả lưu ý vậy!).
Như Dần cung mà an Mệnh, ở Ngọ Tuất cung có Tử Phủ đến chầu, hoặc cung Thân (khỉ) mà an Mệnh có Tử Phủ ở Tý Thìn đến chầu, thì là tượng của “nhân quân phỏng thần” (người vua tới thăm hỏi bề tôi), là kỳ cách vậy. Gặp thêm lưu Lộc trong hạn thì tất nhiên sẽ được tước vị tận công hầu khanh tướng. Nếu như Thất Sát tại Mệnh ở Dần Thân cũng coi là thượng cách. Nếu như có Hóa Kị gia thêm hung sát tinh thì luận là bình thường.
*
Khoa Quyền đối củng dược tam cấp ư vũ môn,
Nhật Nguyệt tịnh minh tá cửu trùng ư nghiêu điện.
(Có Khoa Quyền 1 đối cung và 1 tam hợp củng chiếu thì như cá chép vượt vũ môn hóa rồng,
Có Nhật Nguyệt cùng sáng rực rỡ thì được phò tá cho bậc quân vương nơi cung điện).
Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc, tam phương đối củng chính là cách ấy, có thể (trường hợp) Mệnh có 1 trong Khoa/Quyền/Lộc và tam phương cũng có 1 trong Khoa/Quyền/Lộc chiếu, không gặp sát tinh thì cũng hiển nhiên như vậy.
Cung Mệnh an tại Sửu có Nhật ở Tị và Nguyệt ở Dậu tới chầu là tịnh minh (sáng rực rỡ), người sinh năm Tân Ất là hợp cách, nếu như sinh năm Bính thì chủ quý, tuổi Đinh thì chủ phú, nếu thêm Tứ Sát Kiếp Không Kị thì lại bình thường.
phủ Tướng đồng lai hội mệnh cung toàn gia thực lộc,
Tam hợp minh châu sinh vượng địa ổn bộ thiềm cung.
(Phủ Tướng mà cùng đến hội tụ ở Mệnh cung thì cả nhà có của ăn của để, có lộc,
Tam hợp mà có (Nguyệt) sáng như ngọc ở nơi vượng địa thì ung dung dạo bước cung trăng).
Tam hợp (có Phủ Tướng) chiếu đến gặp thêm bản cung nhiều cát tinh, Thân Mệnh không ở chỗ bại địa thì đó là cách “Phủ Tướng triều viên”, tất sẽ phú quý vậy. Phép bí truyền nói “Phủ Tướng miếu viên cách cực kỳ tốt, ra làm kẻ sĩ làm quan đều đại cát, hưng thịnh”.
Như tại Mùi cung an Mệnh, có Nhật ở Mão, có Nguyệt ở Hợi tới chầu, là cách “Minh châu xuất hải”, nhất định là chủ tiền tài quan lộc đều song toàn tốt đẹp. Như Thìn cung có Nhật thủ Mệnh, Tuất cung có Nguyệt đối chiếu, hoặc Nguyệt thủ Mệnh ở Tuất và Thìn cung có Nhật đối chiếu, thì cũng chủ cực quý.
*
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại,
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân.
(Thất Sát Phá Quân thích hợp / cần phải đi ra bên ngoài,
Cơ Nguyệt Đồng Lương thì hợp làm quan lại).
Hai sao đó (Thất Sát, Phá Quân) hội Thân Mệnh ở chỗ hãm địa, chủ các kiểu tay nghề/tài nghệ tinh thông khéo léo, xuất ngoại thì khá vậy, luận cho Sát ở Dần Thân và (Phá) Quân ở Tị Hợi.
Bốn sao này (Cơ Nguyệt Đồng Lương) tất Thân Mệnh tam hợp (với Văn) Khúc thì có thể có công danh thành tựu trong nghiệp nghiên bút. Thêm Sát tinh Kị tinh là hạ cách. Phép bí truyền nói “Dần Thân hội Đồng Lương Cơ Nguyệt, tất định làm kẻ quan lại”, nếu mà không đủ 4 sao mà chỉ có 3 thôi thì khó thành công.
*
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa đoán định công hầu khí,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc sửu cung trung định thị phương bá công.
(Tử Phủ Nhật Nguyệt mà ở chỗ vượng địa thì đoán định là được tước vị Công, Hầu,
Nhật Nguyệt Khoa Lộc ở trong cung Sửu thì định là có làm quan tước Bá, Công).
Tử Vi cư Ngọ và Thiên Phủ ở Tuất cung, Nhật ở Mão Thìn với Nguyệt ở Dậu Tuất Hợi cung, lại hóa Lộc Khoa Quyền tọa nơi Thân Mệnh thì chính là như vậy. Có thêm Sát tinh Kiếp Không Kị thì không phải thế, như vậy là ngọc đẹp mà lại có tì vết.
Sửu Mùi cung mà an Mệnh, có Nhật Nguyệt hóa Khoa Lộc tọa thủ thì là như vậy, nếu như không có cát hóa thì Nhật Nguyệt đồng cung là không đẹp vậy, phép bí truyền nói:
“Nhật Nguyệt Sửu Mùi mệnh trung phùng
Tam phương vô cát phúc nan sinh
Nhược hoàn cát hóa phương vi mỹ
Phương diện uy quyền phúc lộc tăng”
(Nhật Nguyệt Sửu Mùi, mệnh ở trong
Tam phương thiếu cát, phúc khó phong
Nếu mà cát hóa thành ra đẹp
Được cả uy quyền, phúc lộc tăng).
*
Thiên Lương Thiên Mã hãm phiêu đãng vô nghi,
Liêm Trinh Sát bất gia thanh danh viễn bá.
(Thiên Lương Thiên Mã cùng chỗ lạc hãm, thì đoán là số phiêu đãng mà khỏi cần nghi ngờ,
Liêm Trinh không bị thêm sát tinh thì thanh danh được gia phong, lừng lẫy).
Tị Hợi cung mà an Mệnh, gặp Thiên Lương hãm, lại cùng Thiên Mã đồng cung, lại có thể bị vây hãm bởi Hỏa La Không Kiếp (Hỏa Tinh, Đà La, Không Kiếp) thì cứ y như thế mà đoán.
“Sát” là Tứ Sát vậy, như Mão cung mà an Mệnh, có Liêm Trinh không gặp Tứ Sát thì chủ quý, cũng cần phải có tam hợp cát tinh củng chiếu thì được thanh danh vang dội, nếu có thêm sát tinh thì bình thường. Hoặc tại hai cung Mùi Thân mà tọa Mệnh không gặp sát tinh cũng tốt lành.
*
Nhật chiếu lôi môn phú quý vinh hoa,
Nguyệt lãng thiên môn tiến tước phong hầu.
(Có cách “Nhật chiếu lôi môn” thì được phú quý vinh hoa,
Có cách “Nguyệt lãng thiên môn” thì được tăng tước vị, được phong Hầu).
Cung Mệnh an tại Mão (cung Chấn – sấm) có Thái Dương tọa thủ thì gọi là “Nhật xuất/chiếu lôi môn”, được thêm ở tam phương có Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thủ chiếu thì phú quý không hề nhỏ, người tuổi Giáp Ất Tân là hợp cách, (dẫu) có thêm Hình Kị Tứ Sát thì cũng chủ no ấm.
Cung Mệnh an tại Hợi (cung Càn – trời) có Thái Âm tọa thủ thì gọi là “Nguyệt lãng thiên môn”, được thêm tam phương có cát tinh củng chiếu thì chủ đại phú đại quý (không có cát thì cũng chủ có chút công danh nhưng làm tạp chức), người tuổi Bính Đinh thì chủ quý, người tuổi Nhâm Quý thì chủ phú.
*
Dần phùng Phủ Tướng vị đăng nhất phẩm chi vinh,
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát tọa chi quý.
(Ở cung Dần gặp Phủ Tướng chầu về là được thăng tiến vẻ vang tới hàm nhất phẩm,
Ở Mộ cung mà có Tả Hữu thì chỗ ngồi làm quan cao cấp, tôn quý).
Dần cung an Mệnh, có Phủ ở Ngọ và Tướng ở Tuất đến chầu, người tuổi Giáp gặp được thì đúng là như vậy (thăng tiến quan lộ). Nếu như thêm Sát tinh thì không phải thế. Nếu như ở cung Dậu an Mệnh, có Phủ ở Sửu và Tướng ở Tị tới chầu thì cũng quý.
An mệnh tại Thìn Tuất Sửu Mùi, có Tả Hữu tọa thủ thì vậy, hoặc Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch mà gặp (Tả Hữu tứ Mộ) thì cũng chủ cả đời được phúc thọ.
(QNB chú: câu này có lẽ là Tả Hữu phù trì cho cách cục nào đó rất đẹp của chính tinh, nếu không chỉ có Tả Hữu mà nói như vậy thì thật quá lời. Độc giả lưu ý vậy).
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển,
Khúc ngộ Lương tinh vị chí thai cương.
(Thiên Lương ở Ngọ là vị trí của người làm quan vô tư thanh liêm vẻ vang,
Văn Khúc gặp Thiên Lương chỗ miếu vượng thì tước vị cỡ Tam Thai, Tam Công).
Cung Mệnh an tại Ngọ có Thiên Lương tọa thủ thì đúng là vậy, người tuổi Đinh là thượng cách, người tuổi Kỷ là thứ cách, người tuổi Quý chủ giàu có cũng là thứ cách.
Cung Ngọ an Mệnh có Văn Khúc Thiên Lương đồng cung tọa thủ là thượng cách, ở Dần cung thì là thứ cách, hoặc Lương tại Ngọ và Khúc tại Tý xung củng cũng làm quan tới cỡ nhị phẩm tam phẩm.
*
Khoa Lộc tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng,
Văn tinh ám củng Cổ Nghị doãn hĩ đăng khoa.
(Hạn gặp Khoa Lộc thì Chu Bột vui mừng được Lưu Bang phong làm tướng quân,
Có Văn tinh ám củng mà Cổ Nghị được đỗ đại khoa, thời Hán Văn Đế).
Mệnh cung có cát tinh tọa thủ, tam phương Hóa cát xung củng, hoặc là trước cung Mệnh 3 vị (tức là Phúc Đức cung) gặp Khoa Quyền Lộc (lúc gặp) là tốt đẹp chủ phú quý.
Như Mệnh cung có cát tinh, Thiên Di Quan Lộc Tài Bạch có Xương Khúc Hóa Khoa triều củng thì cũng được như vậy (đỗ đại khoa).
*
Kình Dương Hỏa Tinh uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành uy trấn biên di.
(Kình Dương và Hỏa Tinh đồng cung đắc địa thì uy quyền xuất chúng,
Tham Vũ đồng hành thì oai phong trấn áp được các nơi ngoài biên cương).
Thìn Tuất Sửu Mùi tứ Mộ cung mà an Mệnh, gặp Kình Dương Hỏa Tinh nhập miếu thì chủ văn võ song toàn, binh quyền vạn dặm.
Cũng như Vũ Tham vượng địa ở Mộ cung gặp Hỏa Tinh thì cũng đoán giống như thế.
*
Lý Quảng bất phong Kình Dương phùng ư Lực Sĩ,
Nhan Hồi yểu chiết Văn Xương hãm ư Thiên Thương.
(Lý Quảng không được Hán Văn Đế phong tước vì Kình Dương gặp Lực Sĩ,
Thày Nhan Hồi bị chết yểu là do Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương).
Nhị tinh (Kình, Lực) thủ mệnh mà có nhiều cát tinh thì cũng là số bình thường, nếu thêm sát tinh thì cực kỳ hung hiểm, nữ mệnh lại không luận cách này.
Như người tuổi Sửu mà Mệnh an cung Dần, lại có Văn Xương hãm ở chỗ Thiên Thương, tới hạn lưu niên lại gặp Thất Sát Kình Đà các sát tinh thì đoán là chết yểu.
*
Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu ngộ tướng quân,
Tử Vũ tài năng Cự tú Đồng Lương xung thả hợp.
(Tử Lộ, tức Trọng Do, oai phong dũng mãnh là do Liêm Trinh miếu gặp Tướng Quân,
Vương Hàn, tức Tử Vũ, có tài năng ấy bởi Cự Môn xung mà Đồng Lương hợp chiếu).
Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Liêm Trinh và Tướng Quân tọa thì là vậy, ngoài ra các trường hợp khác cũng phỏng theo đó mà xét.
Mệnh lập tại cung Thân (khỉ) có Cự ở Dần xung củng, có Đồng ở Tý và Lương ở Thìn tam hợp chiếu, lại có Khoa Quyền Lộc Tả Hữu xung củng hợp thì chính là cách ấy.
*
Dần Thân tối hỉ Đồng Lương hội,
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn.
(Ở chỗ Dần Thân thì rất mừng có được Đồng Lương tụ hội,
Nơi Thìn Tuất thì lại ngại có Cự Môn hãm lâm vào).
Tại cung Dần an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, người sinh năm Giáp Canh cùng năm Thân thì được phú quý. Lại như ở cung Thân (khỉ) an Mệnh, gặp Đồng Lương hóa cát, thì người sinh năm Giáp Canh cùng năm Dần được hưởng phú quý.
An Mệnh ở chỗ hai cung Thìn Tuất, gặp Cự Môn hãm, chủ nhân làm việc đảo điên, thêm sát tinh thì toàn nói lời sai quấy, không thể tránh được hình khắc, thương tật, đòn roi. Nếu gặp thêm ác hạn thì hung hiểm vô cùng.
*
Lộc đảo Mã đảo kị Thái Tuế chi hợp Kiếp Không,
Vận suy hạn suy hỉ Tử Vi chi giải hung ách.
(Có cách “Lộc đảo”, “Mã đảo” thì rất kị gặp năm hạn có Kiếp Không hợp chiếu,
Vận suy hạn suy thì rất mừng được Tử Vi để mà giải hung ách).
Như Lộc Mã lâm vào chỗ Bại Tuyệt Không Vong (thì gọi là cách “Lộc đảo Mã đảo”), mà đến lưu niên thái tuế hội hợp Kiếp Không thì luận là chủ lắm tai nhiều nạn, hối hận, phá tán tài sản.
Như đại tiểu hạn không gặp được cát diệu, mà Thân Mệnh lại có Tử Vi thủ chiếu thì tuy hạn hung nhưng chủ vẫn bình ổn, cái này gọi là Thân Mệnh có Chúa tinh đó mà.
*
Cô bần đa hữu thọ,
Phú quý tức yểu vong.
(Cô đơn, nghèo thì được thọ,
Phú, quý thì chết non).
Nếu như sao chủ mệnh nhược kém, cùng Tài Quan Tử Tức hãm địa, cũng cần phải giảm tài lộc để hưởng diên thọ vậy.
Lại như Thái Tuế tọa chỗ sao mệnh chủ cũng đều nhược kém, có thể Tài Quan có nhiều hóa cát, có thể đi đến hạn cát lành thì chủ định hoạnh phát nhưng không bền, được mười hay hai mươi năm khi qua vận thì yểu vong vậy.
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu đọa lâu chi ách,
Quan Phù Thái Tuế Công Dã hữu luy tiết chi ưu.
(Hạn có Điếu Khách Tang Môn nên nàng Lục Châu vướng ách nhảy lầu,
Vận gặp Quan Phù Thái Tuế nên chàng Công Dã phiền với gông xiềng).
Đại tiểu hạn gặp tiền Tang Môn hậu Điếu Khách, cùng tới năm hạn Thái Tuế gặp hung tinh thì tất sẽ bị kinh sợ nguy hiểm như vậy, đó là dùng thần sát lưu niên để luận.
Thân Mệnh có Quan Phù Thái Tuế tọa thủ, cùng nhị hạn lại gặp Quan Phù với các sát tinh, cho nên mới hung như thế (vào tù). Công Dã Tràng là hiền nhân đệ tử của Khổng Tử vậy, Khổng Tử viết “Công Trung Tràng tuy ở trong gông xiềng nhưng cũng chẳng có tội gì cả, có thể gả con gái của mình cho nó”.
*
Hạn chí Thiên la Địa võng Khuất Nguyên nịch thủy nhi thân vong,
Vận ngộ Địa Kiếp Thiên Không Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ.
(Hạn tới chỗ Thiên La Địa Vong nên Khuất Nguyên ôm phiến đá nhảy sông Mịch La mà chết,
Vận gặp Địa Kiếp Thiên Không nên Nguyễn Tịch nát rượu lâm vào cảnh cực khổ bần cùng).
Nhị hạn đi tới hai cung Thìn Tuất gặp phải Vũ Tham, có thêm Thái Tuế Tang Môn Điếu Khách Bạch Hổ cùng Kiếp Sát Không Vong Tứ Sát, hoặc có thể một lần gặp xung chiếu trong kỳ hạn thì cực hung, cho nên mới vậy (nhảy sông tự tử).
Nhị hạn ở trong 12 cung nhưng gặp 2 sao Không Kiếp, tuy nhiều cát cũng thành ra tiền đến rồi tiền lại đi, nếu như gặp lưu niên sát tinh, hung tinh thì nhất định là nghèo khốn.
*
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh táng mệnh yểu niên,
Mệnh Không hạn Không vô cát tấu công danh thặng đặng.
(Xương Khúc hội Liêm Trinh hãm thì dễ chết non,
Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, lại không có cát tinh tụ tập thì công danh lận đận).
An Mệnh tại hai cung Tị Hợi gặp Liêm Trinh hội Xương Khúc thì xảy ra cơ sự như vậy (chết yểu), người tuổi Tân tối kị. Nếu như gặp được hai sao tài ấn là Vũ Khúc và Thiên Tướng thì lại phản chuyển thành đắc quyền mà chủ quý.
Như Mệnh và hạn đều gặp Không Vong, có thêm sát tinh thì công danh tất sẽ không có thành tựu. Hoặc có chính tinh cát hóa gặp Không Kiếp nơi Mệnh và hạn cũng chủ chuyên cần đèn sách mà chẳng được thành đạt.
*
Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên chiết sí,
Mệnh trung ngộ Kiếp kháp như lãng lý hành thuyền.
(Mệnh có Thiên Không -tức Địa Không của ta, thì giống như lưng trời gãy cánh,
Địa Kiếp thủ Mệnh thì đúng là như thuyền lênh đênh trên sóng nước).
Mệnh cung gặp Thiên Không tọa thủ thì luận là bình thường, càng sợ lúc trung niên lại gặp nó, nếu mà bỗng vụt phát tài thì tất sẽ chủ hung vong. Như mệnh an tại Hợi cho người sinh giờ Tý và mệnh an tại Tị cho người sinh giờ Ngọ, đều chính là bị như vậy.
Mệnh cung gặp Địa Kiếp tọa thủ thì luận là bình thường, cũng không giữ được tiền tài, nếu có thêm Sát Kị thì rất hung hiểm.
*
Hạng Vũ anh hùng hạn chí Thiên Không nhi táng quốc,
Thạch Sùng hào phú hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
(Hạng Vũ anh hùng là thế mà hạn đến Thiên Không cũng mất nước,
Thạch Sùng giàu vậy mà hạn tới Địa Kiếp cũng tan nhà).
Đại tiểu hạn mà đều gặp Thiên Không (tức Địa Không) thì sẽ vậy.
Đại tiểu hạn lâm vào chỗ của Địa Kiếp hãm hay giáp với nó, gặp thêm lưu niên các sát tinh thì tất sẽ hung như thế.
*
Lã hậu chuyên quyền lưỡng trùng Thiên Lộc Thiên Mã,
Dương phi hảo sắc tam hợp Văn Khúc Văn Xương.
(Bà Lã Hậu chuyên quyền là do cách lưỡng trùng Lộc Mã,
Dương quý phi đẹp mà dâm là bởi tam hợp có Văn Khúc Văn Xương).
Lộc Tồn gặp Hóa Lộc cùng với Thiên Mã đồng cung thì là vậy (cách “lưỡng trùng Lộc Mã” được phú quý tột bực). QNB chú: ở trên dùng chữ “chuyên quyền” là muốn dùng phép ẩn dụ để nói đến vị thế được phú quý tột bực mà thôi, chớ nên hiểu là cách “lưỡng trùng Lộc Mã” = chuyên quyền.
Mệnh cung cùng với Tài Quan và Thiên Di cung có Xương Khúc hợp chiếu, lại gặp thêm Thái Âm Thiên Cơ thì vừa đẹp vừa dâm.
*
Thiên Lương ngộ Mã nữ mệnh tiện nhi thả dâm,
Xương Khúc giáp Trì nam mệnh quý nhi thả hiển.
(Thiên Lương với Mã cùng hãm vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện,
Xương Khúc giáp Đan Trì, Quế Trì thì nam Mệnh vừa quý lại vừa vinh hiển).
Giả như tại 4 cung Dần Thân Tị Hợi an Mệnh gặp Thiên Mã tọa thủ, mà tam phương gặp Thiên Lương hợp chiếu thì vậy (vào nữ mệnh thì vừa dâm vừa tiện).
Thái Dương là Đan Trì, Thái Âm là Quế Trì, như Thái Dương Thái Âm tại Sửu Mùi cung an Mệnh mà có Tả Hữu Xương Khúc giáp ở 2 cung trước sau thì vậy (vào nam mệnh vừa quý vừa vinh hiển).
*
Cực cư Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng,
Trinh cư Mão Dậu định thị công tư lại bối.
(Tử Vi cư Mão Dậu thì thường dễ thoát tục mà đi tu,
Liêm Trinh cư Mão Dậu thì định là phường quan lại cấp thấp).
Tử Vi là Bắc Cực (QNB chú: có trường hợp còn coi Tử Vi là Thái Cực), nếu như tọa thủ ở cung mệnh mà thêm sát tinh thì chủ tăng đạo, nếu không có sát tinh mà lại có thêm Tả Hữu Khôi Việt thì chủ quý.
Tại Mão Dậu cung mà an Mệnh có Liêm Trinh tọa thủ, thêm sát tinh thì tất sẽ làm tư lại, bộc dịch (quan lại cấp rất thấp, chân sai vặt) ở chốn công môn.
*
Tả Phủ đồng cung tôn cư vạn thừa,
Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai.
(Tả Phụ và Thiên Phủ đồng cung thì vị trí (ngồi trong triều) rất cao,
Liêm Trinh Thất Sát thủ mệnh thì phiêu đãng chân trời góc biển).
Tại Thìn Tuất mà an Mệnh, gặp 2 sao ấy (Tả Phụ, Thiên Phủ), thêm tam phương có cát hóa củng chiếu xung chiếu thì tất sẽ ở chỗ quý cực phẩm.
Mệnh an tại Tị Hợi mà gặp 2 sao ấy (Liêm Trinh, Thất Sát), thêm sát tinh, Hóa KỊ, Không Kiếp, thì số lang bạt nơi chân trời, chẳng giữ nghiệp nhàm, phải gian khổ làm quân nhân hoặc buôn bán ở bên ngoài.
*
Đặng Thông ngạ tử vận phùng Đại Hao chi hương,
Phu Tử tuyệt lương hạn đáo Thiên Thương chi nội.
(Đặng Thông chết đói là do vận gặp chỗ của Đại Hao,
Khổng Tử bị hết sạch lương thảo là vì hạn vào trong chỗ của Thiên Thương).
Mệnh mà an tại Tý cung, nhị hạn đi tới hoặc giáp với chỗ đó (chỗ của Thiên Thương), có Đại Hao và gặp thêm các ác diệu thì đói kém, hao phá, chết đói.
*
Linh Xương La Vũ hạn chí đầu hà,
Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử.
(hạn gặp Linh Xương La Vũ thì dễ gieo mình xuống sông,
Cách Cự Hỏa Kình Dương thì cả đời dễ thắt cổ tự vẫn).
Các sao ấy giao hội tại hai cung Thìn Tuất, người tuổi Tân Nhâm Tị mà nhị hạn đi tới đó thì định là gặp thủy nạn. Nếu thêm các ác sát tinh thì tất sẽ chết ở ngoài đường. Nếu như 4 sao ấy tại Thìn Tuất tọa mệnh thì cũng thế.
Ba sao này tọa thủ ở Thân Mệnh, đại tiểu nhị hạn mà gặp, lại có thêm ác sát thì cứ y vậy mà đoán (dễ tự tử).
*
Mệnh lí phùng Không bất phiêu lưu chủ tật khổ,
Mã đầu đới kiếm phi yểu chiết tắc hình thương.
(Chỗ cung Mệnh mà gặp Không thì nếu chẳng phiêu đãng lưu lạc sẽ bị bệnh tật khốn khổ,
Có cách “Mã đầu đới kiếm” thì không chết non cũng sẽ bị hình phạt, hình khắc, thương tật).
Như Mệnh cung không có chính tinh, lại có Thiên Không (tức Địa Không của ta) đơn thủ, thêm tam hợp có sát tinh, Hóa Kị, thì cứ y như thế mà đoán, có thêm cát tinh thì cũng đỡ hơn.
Kình Dương cư ngọ thủ Mệnh (gọi là “Mã đầu đới kiếm”), ở Mão thì là thứ cách, ở Dậu cũng là thứ cách, đó chính là chỗ mà Kình Dương lạc vào hãm địa, ở Dần Thân Tị Hợi đối với Đà La thì cũng giống vậy, nếu như ở Thìn Tuất Sửu Mùi thì không e ngại.
*
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc,
Xương Tham cư mệnh phấn cốt toái thi.
(Ở chỗ Tý Ngọ có Phá Quân thì được tăng tiến về tài lộc, quan chức,
Tham Lang Văn Xương đồng cung lạc hãm thì dễ bị tai nạn tan xương nát thịt).
Mệnh mà an ở hai cung Tý Ngọ, có Phá Quân tọa thủ (QNB chú: cách này gọi là “Anh tinh nhập miếu”), thêm cát tinh thì tất nhiên được vị trí tước hàm cỡ bực Tam Công.
Như an Mệnh ở hai cung Tị Hợi, gặp Tham Xương tọa thủ, thêm sát tinh với Hóa Kị thì yểu vong, hoặc ở Quan Lộc cung mà gặp như vậy thì cũng dễ có tai nạn giống thế.
*
Triều Đẩu ngưỡng Đẩu tước lộc vinh xương,
Văn Quế Văn Hoa cửu trùng quý hiển.
(Chầu và ngưỡng về chỗ của Tử Phủ thì thường được hưng thịnh vinh hoa về tước lộc,
Có Xương Khúc miếu đắc thì được quý hiển tột bực).
Thất Sát thủ mệnh ở vượng cung thì là vậy, như ở Tý Ngọ Dần Thân là triều Đẩu, ở tam phương chiếu về là ngưỡng Đẩu, nhập cách thì chủ được phú quý, nếu ở Thiên Di hoặc Quan Lộc thì không luận như thế.
Văn Xương là Văn Quế, Văn Khúc là Văn Hoa, như an Mệnh tại Sửu Mùi mà gặp Xương Khúc, gặp thêm hóa tinh cát tinh củng chiếu hoặc giáp cung thì chính là được hiển quý vậy. Nếu mà không có cát tinh, hóa tinh thì cũng vô dụng.
*
Đan Trì, Quế Trì tảo toại thanh vân chi chí,
Hợp Lộc củng Lộc định vi cự phách chi thần.
(Gặp Nhật Nguyệt miếu vượng thì được toại lòng thỏa chí tang bồng,
Được Lộc hợp và củng thì nhất định là người tôi thần có tài năng cự phách).
Đan Trì là Nhật ở Mão Thìn Tị, Quế Trì là Nguyệt nhập vào chỗ Dậu Tuất Hợi, sáu cung ấy mà Thân Mệnh gặp được thì được xứng ý toại lòng, cũng cần phải có Xương Khúc Khôi Việt.
Lộc Tồn với Hóa Lộc tại Tài cung và Qun cung, hợp chiếu vào Mệnh, hoặc Mệnh tọa Lộc mà Thiên Di có Lộc củng chiếu cũng chủ phú quý. Phép bí truyền nói “hợp Lộc củng Lộc đôi kim tích ngọc, tước vị cao thiên y tử bào” (có cách “hợp Lộc củng Lộc” thì giàu có vô cùng, tước vị cao tột bực).
*
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa,
Phụ Bật ngộ Tài Quan y phi trứ tử.
(Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc thì ra đời được vinh hoa phú quý,
Ở Tài Quan mà có Tả Hữu thì được mặc áo tía, áo lụa đào – ám chỉ quan phục cao cấp).
Như ở cung Mệnh có Âm Dương, ở Tài Quan có Xương Khúc hội tới. Hoặc ở cung Mệnh có Xương Khúc, còn Tài Quan thì lại có Nhật Nguyệt hội về. Gặp thêm Khôi Việt cùng các cát tinh thì tất sẽ phú quý.
Như ở Mệnh Thân có chính tinh hóa cát (Khoa Quyền Lộc), gặp Tả Hữu đến chầu từ tam phương thì được quan tước cao.
*
Cự Lương tương hội Liêm Trinh tinh, hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh.
(Cự Lương hội với Liêm Trinh lại có song Lộc hợp chiếu thì một đời được vinh hiển).
Bốn sao Cự Lương Liêm Tham ở Thân Mệnh mà tam hợp gặp được các cát tinh miếu địa, lại vừa có thêm Lộc Tồn Hóa Lộc ở Phu Thê cung, hoặc có Lộc tới hợp chiếu thì cũng chủ phú quý.
*
Vũ Khúc nhàn cung đa thủ nghệ,
Tham Lang hãm địa tác đồ nhân.
(Vũ Khúc ở nhàn cung thì đa phần là làm nghề thủ công,
Tham Lang ở chỗ hãm địa thì làm anh đồ tể chuyên giết mổ gia súc).
Vũ Khúc ở Tị Hợi cung (là hãm địa) mà thủ Mệnh có thêm sát tinh tụ họp thì chỉ làm nghề thủ công mà yên thân.
Tham Lang ở Tị Hợi cung (là hãm địa) mà thủ Mệnh, có thêm sát tinh tụ họp thì làm anh đồ tể chuyên giết mổ lợn bò trâu ngựa. Có thể Liêm Tham ở Tị Hợi mà thêm sát tinh, Hóa Kị thì cũng dễ chết yểu.
*
Thiên Lộc triều viên thân vinh quý hiển,
Khôi tinh lâm mệnh vị liệt tam thai.
(Lộc Tồn mà chầu cung Mệnh thì tấm thân được vinh quang quý hiển,
Khôi Việt đóng vào Mệnh vị thì cũng được tước vị cỡ ngôi Tam Công).
Như người sinh năm Giáp mà an Mệnh tại cung Dần, Lộc Tồn đến Dần thủ mệnh năm Giáp cũng khiến cho thành “Lộc triều viên” cách, lại như tuổi Canh an Mệnh tại Thân, tuổi Ất an Mệnh tại Mão, tuổi Tân an Mệnh tại Dậu, bốn vị trí Lộc thủ Mệnh cung đó thì đoán y như vậy. Thêm sát tinh, Hóa Kị thì bình thường. Ngoài ra, người sinh các năm Bính Mậu Đinh Kỷ Nhâm Quý tại 4 cung Tị Hợi Tý Ngọ không được coi là “Lộc triều viên” vậy.
(QNB chú: Nguyên chữ “triều” này vốn được hiểu là triều kiến, chầu, ngoảnh mặt về, hướng về,… chữ “viên” được dùng chỉ Mệnh Viên. Ở đây lại nói về Lộc Tồn thủ mệnh, thì cũng kể là lạ vậy. Xin độc giả lưu ý).
Như an Mệnh tại cung Ngọ có Tử Vi tọa thủ, gặp Văn Xương Khôi Việt đồng cung thì người tuổi Nhâm là kỳ cách.
(QNB chú: dịch nguyên văn “如午宮安命紫微坐守, 遇文昌魁鉞同宮壬生人奇格. – Như Ngọ cung an mệnh Tử Vi tọa thủ, ngộ Văn Xương Khôi Việt đồng cung Nhâm sinh nhân kỳ cách.” Không hiểu tại sao ở Ngọ lại có thể gặp được Khôi Việt cho tuổi Nhâm mà thành kỳ cách đây??? Xin độc giả lưu ý).
*
Vũ Khúc cư Càn Tuất Hợi thượng, tối phạ Thái Âm phùng Tham Lang.
(Vũ Khúc ở Càn cung Tuất Hợi, rất sợ Thái Âm gặp Tham Lang).
Vũ Khúc tại Tuất Hợi thủ Mệnh, tam phương thấy Thái Âm Tham Lang Hóa Kị thêm các sát tinh thì không đẹp vậy, đoán định chủ thiếu niên bất lợi. (QNB chú: Vũ Khúc với Thái Âm nhị hợp chứ đâu có thể gặp ở tam phương mà nói vậy. Và Âm với Tham kẻ trước người sau. Độc giả lưu ý vậy). Hoặc như có Tham Hỏa xung thì chủ quý, người tuổi Giáp Kỷ là hợp cách.
*
Hóa Lộc hoàn vi hảo, hưu hướng Mộ trung tàng.
(Hóa Lộc chiếu về mệnh là hay, đừng* nằm ở trong Mộ cung).
Như Vũ Khúc Thái Âm Tham Lang hóa Lộc thủ chiếu Mệnh cung, thêm các cát diệu cũng chủ phú quý, nhưng ở Thìn Tuất Sửu Mùi cung thì dù Hóa cát cũng vô dụng. Thìn Tuất Sửu Mùi là thần của tứ Mộ.
(QNB chú: Tôi từng biết có người giải nghĩa câu này là “Hóa Lộc mừng ở cung Tài cư Tuất chiếu về Mệnh ở Dần có Tử Phủ thì tuyệt đẹp, Hóa Lộc ở Mộ khố lại là Tài Bạch cung thì đúng vào kho tiền, có thể quản lý tài chính rất tốt”. Cũng có vẻ hợp lý.
Nay ta xét, chữ “休-hưu” này đa nghĩa, khi là động từ và tính từ thì có nghĩa là “vui”, “mừng”, “tốt đẹp”, “tốt lành”,… khi là phó từ thì có nghĩa là “đừng”, “chớ” để bổ nghĩa cho động từ đi ngay sau nó.
Trong vế sau của câu, thì ta thấy chữ “向-hướng” là động từ, cho nên chữ “hưu” sẽ đóng vai trò phó từ và sẽ mang nghĩa là “đừng”, “chớ”.
Bởi vậy, hiểu theo cách giải của sách này là “Hóa Lộc chớ có đóng vào Mộ cung kẻo vô dụng” thì còn đúng với cấu trúc câu hơn.
Xin độc giả lưu ý, bàn luận thêm vậy).
*
Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc,
Minh Lộc ám Lộc cẩm thượng thiêm hoa.
(Cự Môn ở Tý Ngọ là như ngọc ẩn ở trong đá,
Minh Lộc ám Lộc là như áo gấm được thêm hoa).
An Mệnh ở hai cung Tý Ngọ mà gặp Cự Môn tọa thủ, thêm đắc ở Dần Tuất (chiếu Ngọ) Thân Thìn (chiếu Tý) có Khoa Quyền hợp chiếu thì tất sẽ phú quý. Bí văn nói “Cự Môn Tý Ngọ Khoa Quyền chiếu, quan tư khanh hiển chí tam công” (Cự Môn ở Tý Ngọ có Khoa Quyền chiếu thì đường quan lộ được hanh thông hiển hách, lên tới tước tam công).
*
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân, phú nhi bất quý hữu hư danh.
(Tử Vi ở Thìn Tuất gặp Phá Quân, giàu mà chẳng quý chỉ có hư danh).
An Mệnh tại nhị cung Thìn Tuất, gặp Tử Vi Phá Quân thực là hãm địa, tất nhiên chẳng quý, dù có phát tài nhưng cũng ko thực sự là mệnh được hưởng thụ.
*
Xương Khúc Phá Quân phùng hình khắc đa lao lục,
Tham Vũ Mộ trung cư tam thập tài phát phúc.
(Xương Khúc với Phá Quân gặp nhau, thì có sự hình khắc, cuộc đời nhiều lận đận,
Tham Vũ cư ở trong cung tứ Mộ, sau ba mươi tuổi thì phát tài phát phúc).
Như ở Mão Dậu Thìn Tuất có Phá Quân thủ Mệnh, dẫu có được Xương Khúc cũng không toàn cát, thêm sát tinh, Hóa Kị thì càng không được đủ quý vậy.
Như ở Thìn Tuất Sửu Mùi mà có Vũ Tham thủ Mệnh, định rằng chủ bất lợi lúc thiếu niên, thêm sát tinh Hóa Kị thì yểu thọ, sau ba mươi tuổi thì phát tài phát phúc. Bí văn nói “Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân, vận quá tam thập phương diên thọ”.
*
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý.
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hóa cát Lộc tranh vanh.
(Thiên Đồng ở Tuất là hãm địa thất huy, người tuổi Đinh thì hóa Quyền nên gọi là hóa cát, chủ đại quý.
Cự Môn ở Thìn Tuất là hãm địa, người tuổi Tân thì hóa Lộc, là hóa cát, được tài lộc cao chót vót).
Thiên Đồng ở cung Tuất vốn là chỗ hãm, nhưng người tuổi Đinh thì (ở bản cung Đồng hóa Quyền) ở Ngọ có Lộc Tồn, ở Dần có Cơ Âm hóa Lộc hóa Khoa, ở Thìn có Cự Môn hóa Kị (đắc Mộ cung), cùng xung và củng chiếu thì định là chủ đại quý, Thiên Tướng cũng như vậy (QNB chú: không nói rõ trường hợp Thiên Tướng thì tuổi nào), nếu thêm sát tinh thì dễ theo tăng đạo, định là hạ cục.
Cự Môn tọa Mệnh tại Thìn Tuất cung vốn là hãm địa, nhưng người tuổi Tân thì Cự Môn hóa Lộc, lại được ám hợp Lộc Tồn ở Dậu (khi Mệnh ở Thìn), được Lộc Tồn ở Dậu giáp Mệnh (khi Mệnh ở Tuất), tất sẽ chủ phú quý, nếu thêm sát tinh thì không phải như vậy.
*
Cơ Lương Dậu thượng hóa cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh.
(“Cơ Lương” ở trên cung Dậu dù có gặp được hóa cát ở Tài Quan thì cũng không vinh hiển).
QNB chú: Câu phú này chắc là có sự nhầm lẫn trong lúc sao chép, vì ở Dậu thì chỉ có thể có Thái Dương và Thiên Lương đồng cung và cùng hãm mà thôi, không thể là Cơ Lương được.
*
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối nãi vi thất huy,
Mệnh Thân định yếu tinh cầu khủng sai phân số.
(Nhật Nguyệt rất ngại quay lưng vào nhau vì như thế là mất ánh sáng, lạc hãm,
Phân định chỗ trọng yếu Mệnh Thân thì yêu cầu phải tinh tế, vì sợ có sai số).
Thái Dương tại Thân Dậu Tuất Hợi Tý, Thái Âm tại Dần Mão Thìn Tị Ngọ, thì là Nhật Nguyệt không có ánh sáng, có quý gì đâu, nhưng mà có Nhật Nguyệt phản bối mà lại giàu có sang quý thì lại phải coi lại xem bản cung và tam hợp có cát hóa củng chiếu, không có sát tinh thì mới vậy, bởi thế Ngọc Thiềm tiên sinh thường viết “nghị luận trong Số rất tinh vi, phép đoán ở lòng người phải linh hoạt biến hóa”.
Gặp chỗ an cung Mệnh Thân thì trước tiên biện luận về giờ sinh, giờ đúng thì không thể không ứng, Thân Mệnh đã an định rồi thì sau đó xem bản cung Sinh Vượng Tử Tuyệt thế nào, rồi sau mới theo sao mà phán đoán.
*
Âm chất diên niên tăng bách phúc, chí vu hãm địa bất tao thương.
(Số đã ngầm định là hưởng thọ tăng phú thì dẫu đến chỗ hãm địa cũng không bị tổn thương).
Câu đó nói về Thân Mệnh nhị tinh (QNB chú: có lẽ chữ “nhị tinh” là để làm rõ rằng muốn đề cập tới Sao chủ Mệnh và Sao chủ Thân, chứ không phải là cung Mệnh & cung Thân), nếu như nhược kém mà vẫn được phúc thọ cát khánh, đó là do ngầm định ấy là người có đức vậy. Thân Mệnh tuy nhược, cùng với hành hạn cũng nhược lại phản chuyển được phúc, đó tất là do tâm tốt lương thiện nên thắng được ngầm định (QNB chú: ý muốn nói đến “đức năng thắng số”).
*
Mệnh thực vận kiên cảo điền đắc vũ
Mệnh suy hạn nhược nộn thảo thao sương,
(Mệnh có thực lực, vận lại vững chắc thì như ruộng lúa được mưa tưới tắm,
Mệnh mà suy, hạn lại nhược kém thì giống như cỏ non gặp phải sương dầm).
Nếu như Mệnh tọa hãm địa, lại có bốn bề cát tinh củng chiếu cũng luận là phúc. Còn như Mệnh tọa hãm địa, vận gặp ác sát thì tất sẽ chủ tai họa hối hận.
Nếu Mệnh mà có thực lực (sinh vượng) mà vận lại kiên cố (sinh vượng, có cát củng chiếu) thì phúc của nó khỏi cần nói vậy.
*
Luận Mệnh tất suy tinh thiện ác,
Cự Phá Kình Dương tính tất cương.
(Luận mệnh tất phải suy sao thiện sao ác,
Cự Môn Phá Quân Kình Dương mà thủ mệnh thì tính tình tất sẽ cương cường, cứng rắn).
Như 3 sao ấy mà thủ mệnh lại cư vào hãm địa, chẳng những tính cương cường như vậy mà còn định là chủ lời lẽ thị phi, thêm sát tinh thì sẽ bị hình thương, phá bại.
*
Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo,
Hỏa Kiếp Không Tham tính bất thường.
(Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương thì tính tình rất tốt,
Hỏa Tinh, Địa Kiếp, Địa Không, Tham Lang thì tính khí thất thường).
Phủ Tướng Đồng Lương đều là sao thuộc Nam đẩu thuần dương trung chính, Thân Mệnh mà gặp thì tất sẽ có được tính trung thực hòa nhã, nếu như Tham Lang gặp được thì phú quý, nhưng có Không Kiếp lâm vào thì đoán là tính khí thất thường. (QNB chú: phần sách chú giải cho vế sau của câu phú hơi mơ hồ. Độc giả lưu ý).
*
Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo,
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường.
(Xương Khúc Lộc Cơ đều thanh tú và khéo kéo,
Nhật Nguyệt Tả Hữu thì đều nhân từ, ân cần).
Xương Khúc Lộc Cơ mà không gặp thêm sát tinh, chủ nhân lỗi lạch anh hoa thông minh tuấn tú, cũng được hưởng phú quý.
Như Âm Dương Tả Hữu thủ mệnh mà không gặp thêm sát tinh thì chủ nhân tướng mạo thanh kỳ đôn hậu, độ lượng bao dung, luận là phú quý.
*
Vũ Phá Trinh Tham xung hợp khúc toàn cố quý,
Dương Đà Thất Sát tương tạp hỗ kiến tắc thương.
(Vũ Khúc Phá Quân Liêm Trinh Tham Lang xung hợp khiến được phú quý trọn vẹn lâu dài,
Kình Dương Đà La Thất Sát gặp tạp hỗ sát hung tinh thì tất sẽ bị thương tật).
Thâm Mệnh mà trong tam hợp gặp Vũ Phá Trinh Tham thủ chiếu, được thêm cát hóa thì tất sẽ phú quý vậy, cần gặp Tử Vi để thường hàng Thất Sát thành quyền, thường bảo ban được bọn Kình Đà hướng thiện, do đó Tử Vi cùng cư Mệnh là vốn đẹp đẽ, tại xung hợp cũng có thể được, nhưng Thất Sát Kình Dương Linh Tinh vẫn không phải cát diệu, cho nên đến già thì không được thiện, cuối cùng vẫn không được là mệnhc ủa toàn cát.
*
Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác
Thất Sát Kình Dương Đà La hung.
(Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân là tác tính ác cho người có nó,
Thất Sát Kình Dương Đà La thì tính tình cũng hung ác).
Thân Mệnh tam hợp hoặc thủ chiếu mà thấy có sáu sao này, lại đồngh thời có Hóa Kị mà lại không thấy cát hóa thì định là chủ phá bại, tà dâm hoặc tàn tật thương tích, chủ hình khắc. Như nhập miếu có hóa cát thì cũng cứ cùng giống như trên mà đoán.
*
Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác họa
Kiếp Không Thương Sứ họa trùng trùng.
Đại tiểu nhị hạn mà gặp các sao ấy thì định là trong nhà có tai họa, hối tiếc đa đoan, như Thân Mệnh gặp được mà thêm cát tinh thì vô hại với Hỏa Linh, nhưng với Không Kiếp thì không vô hại.
*
Cự Môn Kị tinh giai bất cát,
Vận Thân Mệnh hạn kị tương phùng.
Canh kiêm Thái Tuế Quan Phù chí,
Quan phi khẩu thiệt quyết bất không.
Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ,
Quản giáo tai bệnh lưỡng tương công.
(Cự Môn và hóa Kị thì đều chẳng đẹp chút nào,
Thân Mệnh và vận hạn rất e ngại gặp phải.
Nếu thêm Thái Tuế Quan Phù đến,
Quan tai khẩu thiệt nhất định không thể không có
Lại gặp cả Điếu Khách với Tang môn
Đảm bảo là vừa bị tai họa vừa bị bệnh tật).
Cự Kị tinh là thần quản nhiều sự, ở khắp 12 cung mà Thân Mệnh hay nhị hạn gặp phải thì chủ không được tốt lành, huống hồ Cự Môn vốn chẳng phải cát tinh gì, nếu vào chỗ hãm địa mà còn hóa Kị nữa thì sao mà xem là tốt được.
Thái Tuế và Quan Phù vốn là thần của việc dấy lên kiện tụng, thêm Cự Môn là sao của thị phi, lại đồng thời kiêm hóa ra Kị lâm vào thì chắc chắn việc quan tụng kiện cáo là không tránh được.
Điếu Khách và Tang Môn vốn chủ về hình phạt tang chế, nhưng không gặp Thất Sát Thiên Hình Kình Dương thì có thể miễn được, (nếu gặp chúng) thì tai họa tật bệnh tất sẽ xảy ra vậy, huống chi Hóa Kị lại rất hay sinh ra bệnh tật tai ách nữa.
*
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu,
Tham Lang nhập Mệnh tất vi xướng.
(Thất Sát hãm ở cung an Thân thì chết non,
Tham Lang hãm ở cung Mệnh thì làm ca kỹ).
Thất Sát thủ ở Thân Mệnh mà hãm địa, thêm hung tinh thì cứ y như thế mà đoán.
Nếu như Tham Lang hãm thủ Mệnh, hoặc tại tam hợp chiếu Tham Lang hãm, dù không có thêm sát tinh, thì cũng chủ nam nữ đều dâm dật. Nếu như có thêm sát tinh thì nam chủ phiêu đãng còn nữ chủ dâm loạn. Bí văn nói:
“Tham Lang tam hợp tương chiếu lâm
Dã học Hàn Thọ khứ thâu hương”
(Tham lang hãm ở tam hợp chiếu đến
Thì bắt chước Hàn Thọ mà đi làm trộm cắp đĩ điếm).
*
Tâm hảo mệnh vi diệc chủ thọ,
Tâm độc mệnh cố diệc yểu vong.
(Tâm tốt thì mệnh nhỏ bé cũng được sống thọ,
Tâm ác độc thì mệnh vững chắc cũng chết non).
Hai câu này, câu trước là thuyết giảng về âm đức, câu sau thì biện về xem phản chuyển ra ti tiện. Như Khổng Minh hỏa thiêu đội quân giáp mây mà cũng bị tổn thọ chính là vậy.
Kim nhân mệnh hữu thiên kim quý
Vận khứ chi thì khởi cửu tràng
Số nội bao tàng đa thiểu lý
Học giả tu đương tử tế tường.
(Người nay mệnh quý ngàn vàng vậy
Vận vụt trôi qua há mãi sao
Trong số ít nhiều tàng lý lẽ
Học giả xem kỹ để tỏ tường).
10. Nữ Mệnh cốt tủy phú – chú giải.
Phủ Tướng chi tinh nữ mệnh triền,
tất đương tử quý dữ phu hiền.
(Trong triền độ của cung mệnh người nữ mà có Phủ, Tướng,
Thì tất sẽ có chồng là hiền nhân và có con là quý tử).
Tại cung Ngọ mà an Mệnh có Thiên Phủ, Thiên Tướng tọa thủ, người tuổi Giáp là hợp cách. Ở cung Tý an Mệnh thì người tuổi Kỷ là hợp cách. Ở cung Thân an Mệnh thì người tuổi Canh là hợp cách, tất sẽ được hưởng thụ vinh hoa, được phong tặng vẻ vang vậy.
*
Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ.
Cánh hữu Thiên Đồng diệc lý nhiên.
(Liêm Trinh đắc miếu vào nữ mệnh là năng giữ được sự trong sạch, thuần khiết.
Thêm cả sao Thiên Đồng cũng có cùng cái lý giống như vậy).
Liêm Trinh tại Mùi cung an Mệnh thì người tuổi Giáp là hợp cách. Tại cung Thân (khỉ) an Mệnh thì người tuổi Quý là hợp cách. Tại cung Dần an Mệnh thì người tuổi Kỷ là hợp cách, đều là thượng cục.
Thiên Đồng tại Dần cung an Mệnh, người tuổi Giáp là hợp cách. Tại cung Mão an Mệnh, người tuổi Ất là hợp cách. Tại cung Tuất an Mệnh, người tuổi Đinh là hợp cách. Tại cung Tị an Mệnh thì người tuổi Bính Tân là hợp cách. Tại cung Hợi an Mệnh thì người tuổi Bính Nhâm là hợp cách, đều chủ phú quý.
*
Đoan chính Tử Vi Thái Dương tinh,
Tảo ngộ hiền phu tính khả bằng.
(Người nữ có Tử Vi, Thái Dương thủ mệnh là đoan chính,
Sớm gặp được chồng là hiền nhân để nương tựa).
Tại ba cung Tý, Tị, Hợi mà an Mệnh,